XIN BẠN NGHE TÔI VÀ NÓI CHO NGƯỜI KHÁC NGHE

TÔI KHÔNG CÓ CAO VỌNG MONG BẠN LÀM GÌ HƠN LÀ NGHE TÔI NỐI VÀ NẾU CÓ THỂ, NÓI LẠI CHO NGƯỜI KHÁC NGHE.

Tuesday, July 31, 2012


Đọc lại “Hãy cảnh giác với Bắc Triều” của Lê Chí Quang

Le Nguyen (Danlambao) - “Các triều đại phong kiến của ta chưa bao giờ phải mất một tấc đất nào cho Trung Quốc. Ngay cả những kẻ hèn nhác như Mạc Đăng Dung quỳ gối xin hàng giặc hay Lê Chiêu Thống cõng rắn cắn gà nhà cũng chưa dám dâng đất cho Trung Quốc. Thế mà giờ đây, khi cộng đồng nhân loại đã văn minh hơn, cá lớn không thể nuốt cá bé dễ dàng như xưa thì ai đó lại cam tâm cúi đầu mãi quốc cầu vinh xin dâng phần lãnh thổ, lãnh hải cho Trung Quốc để mong sự bảo trợ cho quyền lãnh đạo độc tôn của mình!” - Lê Chí Quang
*

Điệp khúc đối phó với tham vọng bành trướng của Trung Cộng trên các phương tiện truyền thông lề đảng ra rả nhiều năm nay “... Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử, pháp lý về chủ quyền không thể tranh cãi...” cùng với luận điệu quen thuộc “để cho đảng và nhà nước lo” của các cán bộ, đoàn thể trực thuộc hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của đảng hay nói cách khác trực thuộc các tổ chức ngoại vi, con đẻ của đảng cộng sản Việt Nam chỉ là trò hề rẻ tiền, là những thước phim quá cũ, nhòe nhẹt nhàm chán. Thế cho nên người Việt Nam yêu nước, những ai không thể kiên nhẫn với cách phản đối, phản đối, cực lực phản đối... với khoán trắng cho đảng nhà nước lo được che giấu dưới lớp vỏ bọc của các thế lực thù địch phản động tay sai, việt gian bán nước trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam, nên nhiều người con dũng cảm của tổ quốc đứng lên, xuống đường chống quân xâm lược bằng nhiều cách riêng của mình đều bị ngăn chận, hành hung thô bạo thậm chí bị tống tù với các tội danh vớ vẩn. 

Vài năm gần đây, số người can đảm cất tiếng nói chống âm mưu xâm lược Phương Bắc ngày càng nhiều và họ lần lượt bị tống giam rất bất công vô lý được nhiều người trong ngoài nước biết đến gồm có: 

Cựu chiến binh Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, người đã đến tận nơi chứng kiến, thu vào ống kính Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, Bãi Tục Lãm, Núi Lão Sơn... một phần máu thịt Việt Nam đã bị kẻ thù Phương Bắc cướp mất và kêu gọi biểu tình chống Trung Quốc xâm lược, chống rước đuốc Olympic Bắc Kinh 2008 đi ngang qua lãnh thổ Việt Nam nhằm chuyển tải thông tin đến cộng đồng nhân loại khẳng định Hoàng sa Trường Sa là của Việt nam, để rồi bị tống tù với tội danh trốn thuế! 

Cùng hòa điệu với Điếu Cày lên tiếng khẳng định chủ quyền quốc gia, cô gái đất cảng Phạm Thanh Nghiên, vóc người nhỏ nhưng có trái tim lớn, cô về làng biển nghèo tìm hiểu sự thật và biết rằng ngư trường truyền thống của ông cha ta để lại đã bị giặc thù cưỡng chiếm nên cô biểu lộ tình yêu đồng bào qua các bài viết kể lại thực trạng của các ngư dân làng biển, cùng với hành động biểu tình tại gia bày tỏ tình yêu tổ quốc qua biểu ngữ Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam bị thế lực thù địch của những người yêu nước, giam tù cô với tội danh tuyên truyền chống phá nhà nước! 

Không chỉ người dân bình thường lên tiếng chống bành trướng Bắc Triều, trong lớp người đó, có cả Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ con của một đại công thần của chế độ, một giòng họ có truyền thống yêu nước, yêu cách mạng biểu đạt thái độ qua nhiều bài viết bày tỏ chính kiến trong đó có quan điểm tiến bộ: “Liên minh quân sự với Hoa Kỳ sẽ giúp Việt Nam khẳng định, bảo vệ thành công chủ quyền quần đảo Hoàng Sa Trường sa. Đồng hành quân sự với Hoa Kỳ để đối phó với Trung Quốc là mệnh lệnh của thời đại” nên ông bị bắt với hai bao cao su đã qua sử dụng và bị kết tội tuyên truyền chống phá nhà nước! 

Có lẽ, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, cô gái đất cảng Phạm Thanh Nghiên và Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ... được nhiều người chú ý, quan tâm nhờ phương tiện truyền thông hiện đại, nhanh nhạy của các báo lề dân hiện nay chuyển tải thông tin kịp thời, cũng như vạch trần những tuyên truyền dối trá, phỉ báng bôi nhọ những người người yêu nước biểu đạt chính kiến ôn hòa nhưng cương quyết, làm tấm gương sáng cho các người yêu nước khác bước qua sợ hãi dấn thân nhập cuộc ngày càng nhiều, nhanh hơn so với mười năm trước đó, lúc luật sư trẻ Lê Chí Quang lên tiếng “Hãy Cảnh Giác Với Bắc Triều” bị tống tù không tạo nên làn sóng phẫn nộ trong dư luận xã hội cũng như không tác động nhiều đến những người yêu nước trong thời báo mạng nở rộ ngày nay. 

Ngược giòng thời gian trở lại thời điểm hơn mười năm trước, lúc quan hệ Việt-Trung được xem là nồng ấm sau lần Trung Cộng dạy cho Việt Cộng một bài học trên toàn tuyến biên giới phía Bắc năm 1979 và hội nghị Thành Đô ở Tứ Xuyên, Trung Quốc năm 1990 nối lại tình đồng chí môi hở răng lạnh của hai nước xã hội chủ nghĩa anh em? Lúc đó Lê Chí Quang mới 31 tuổi được xem như là một thanh niên trẻ có tâm, có tầm nhìn xa, thấy tham vọng của Trung Cộng từ lúc mới manh nha, dám can đảm chỉ ra dã tâm của Bắc Triều khi nhận định rằng: 

“Ngay cả lúc tình đoàn kết tưởng như keo sơn nhất, Trung Quốc vẫn tìm mọi cách thức để làm suy yếu nhằm mục đích thôn tính Việt Nam và ngay cả khi hai nước bình thường hóa quan hệ thì cũng là lúc Trung Quốc chuyển sang ý đồ thôn tính Việt Nam bằng kinh tế.” 

Để chỉ ra bản chất của nước đàn anh to xác xấu tính Trung Quốc ôm mộng thôn tính Việt Nam mỗi khi có cơ hội lẫn tạo thành cơ hội dù trong thời chiến hay thời bình, Lê Chí Quang khẩn thiết nhắc nhở nhà nước cộng sản và nhân dân Việt nam hãy cẩn thận đừng mất cảnh giác với Bắc Triều như sau: 

“Những mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, cũng gần giống với Trung Quốc và với trình độ công nghệ còn thấp, hàm lượng công nghệ chưa cao, chủ yếu là các mặt hàng tập trung nhiều lao động như nông sản, giày dép, dệt may đang là những mặt hàng xuất khẩu chủ chốt, mang tính chiến lược của Việt Nam. Đây cũng là một trong những mảng mạnh của hàng xuất khẩu Trung Quốc và sau khi gia nhập tổ chức thương mãi quốc tế (WTO) với những lợi thế được ưu đãi về thuế quan, được bình đẳng trong giải quyết tranh chấp thương mại chắc chắn hàng hóa Trung Quốc với giá rẻ hơn nhiều lần, sẽ chiếm ưu thế cạnh tranh, dễ đánh bật sản phẩm cùng chủng loại của Việt Nam trên thị trường quốc tế.” 

Không chỉ lên án dã tâm của Trung Cộng vô bằng vô chứng giàu trí tưởng tượng như đảng cộng sản Việt Nam thường làm đối với những người tỏ thái độ với bá quyền Trung Quốc và Lê Chí Quang lên tiếng kêu gọi cảnh giác với Bắc triều không do lòng thù hận ganh ghét phát sinh từ chủ nghĩa cực đoan mù quáng, ngu trung nhìn đâu cũng thấy thế lực thù địch. Bằng suy tư, trăn trở có trí tuệ của một thanh niên có lòng với tương lai dân, nước. Lê Chí Quang đưa ra dẫn chứng làm nền tảng lý luận cho nhận định Bắc Triều là hiểm họa của Việt Nam khá thuyết phục: 

“Việt Nam gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới tại đó các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội mở rộng thị trường, buôn bán được ưu đãi với 134 quốc gia cũng như cơ hội đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ rộng lớn hơn và Trung Cộng khi biết được Việt- Mỹ đàm phán hiệp định thương mại, chúng luôn luôn giật dây cho các lực lượng bảo thủ, Việt gian tay sai trong Đảng trì hoãn việc ký kết, thông qua hiệp định thương mãi Mỹ-Việt và hiệp định gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO) vì chính quyền Bắc Kinh biết được những lợi ích đó nên họ luôn tìm cách phá hoại sự hội nhập của Việt Nam vào thế giới văn minh. ” 

Đọc bài nhận định “Hãy Cảnh Giác Với Bắc Triều” sẽ thấy nội dung chính, ngoài những nhận định về dã tâm kinh tế của Trung Cộng, Lê Chí Quang còn nhấn mạnh đến hiểm họa bá quyền nước lớn với đám tay chân cài cấm trong đảng cộng sản Việt Nam ở thời điểm hai nước phải dựa dẫm vào nhau để tồn tại trong thế giới nhiều biến động, nhân loại quay lưng với xã hội chủ nghĩa và bạo lực vẫn còn là phương tiện của nhà cầm quyền độc tài tiêu diệt các cá nhân khác chính kiến, dễ bị gán ghép vào tội phỉ báng bôi nhọ quan hệ ngoại giao “răng môi” của hai đảng, hai nhà nước quả là một cố gắng lẫn can đảm vượt bậc của Lê Chí Quang khi chỉ ra rằng: 

“Việt Nam trong con mắt của Trung Quốc là một miếng mồi ngon có vị trí chiến lược về địa lý, chính trị, lại là miếng mồi dễ nuốt nhất vì được sự hậu thuẫn của các thế lực đen tối, bảo thủ và Việt gian tay sai luồn sâu leo cao trong bộ máy nhà nước.” 

Không những dẫn chứng người thật việc thật cụ thể trước mắt hay không qua tưởng tượng vu vơ, Lê Chí Quang còn sử dụng sự kiện nổi bật của lịch sử để lên án thái độ hèn nhược thật chí lý cũng như hành động tay sai bán nước rất “ân tượng” của thế lực đen tối, tay sai nằm trong đảng cộng sản Việt Nam: 

“Các triều đại phong kiến của ta chưa bao giờ phải mất một tấc đất nào cho Trung Quốc. Ngay cả những kẻ hèn nhác như Mạc Đăng Dung quỳ gối xin hàng giặc hay Lê Chiêu Thống cõng rắn cắn gà nhà cũng chưa dám dâng đất cho Trung Quốc. Thế mà giờ đây, khi cộng đồng nhân loại đã văn minh hơn, cá lớn không thể nuốt cá bé dễ dàng như xưa thì ai đó lại cam tâm cúi đầu mãi quốc cầu vinh xin dâng phần lãnh thổ, lãnh hải cho Trung Quốc để mong sự bảo trợ cho quyền lãnh đạo độc tôn của mình!” 

Lê Chí Quang biết rất rõ khi bày tỏ thái độ, chính kiến công khai với độc tài toàn trị cộng sản là thách thức lớn, nếu không muốn nói là rất nguy hiểm cho bản thân nhưng qua những gì thể hiện trong bài viết thì nguy hiểm của bản thân không là gì cả so với hiểm họa Bắc triều, với sự tồn vong của tổ quốc nên Lê Chí Quang công bố quan điểm và sẵn lòng đón nhận mọi hậu quả lẫn trả giá cho hành động biểu đạt chính kiến của một công dân có trách nhiệm đối với tổ quốc Việt nam, không phải là tổ quốc xã hội chủ nghĩa: 

“Tôi viết bài này khi đang bị kìm kẹp nghiệt ngã trong vòng vây của các lực lượng bảo thủ và Việt gian tay sai cho Bắc Triều. Dù biết rằng, bài viết không làm cho hào quang trên đầu tôi lấp lánh, trái lại càng đẩy tôi sâu thêm vào nguy hiểm. Ngay như đối với một công thần của cách mạng mà họ còn ngang nhiên tuyên bố xanh rờn “… sẵn sàng hy sinh Hoàng Minh Chính để bảo vệ chế độ...” huống chi tôi chỉ là con tốt đen dễ dàng bị biến thành vật tế thần cho bàn thờ Bắc Triều. Dẫu sao trước hiểm họa khôn lường, vì sự tồn vong đất nước, tôi dám nề hà xả thân bởi tôi tâm niệm câu nói của Hàn Phi Tử: “Nước mất không biết là bất tri; Biết không lo liệu là bất trung; Lo liệu không liều chết là bất dũng.” Chỉ mong sao tấc lòng nhỏ mọn này được lương tri dân tộc trong, ngoài nước soi thấu và hết lòng, hết sức chỉ giáo.” 

Tính đến hôm nay bài nhận định “Hãy Cảnh Giác Với Bắc Triều” ra đời trên mười năm và hiện tượng trong thời gian gần đây của điệp khúc cực lực phản đối, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử, pháp lý chủ quyền không thể tranh cãi hay để đảng, nhà nước lo lải nhải không hề mỏi mệt thì âm mưu cướp nước của giặc ngoại xâm và Việt gian tay sai bán nước dấu mình trong Bắc Bộ Phủ đã công khai là thách thức lớn đối với lòng yêu nước của dân tộc Việt nam. 

Từ việc hai đối tượng chính là giặc ngoại xâm Bắc Triều cấu kết với giặc nội xâm Việt gian tay sai bán nước thậm thụt lén lút trao đổi, buôn bán đất biên giới, vịnh Bắc Bộ, tài nguyên khoáng sản đến công khai chiếm trọn biển đảo, ngư trường truyền thống, thành lập đơn vị hành chánh, quân sự Tam Sa ở Biển Đông, lấn sang chiếm lấy dầu khí kêu gọi đấu thầu trên thềm lục địa Việt Nam, đến việc cho người Trung Quốc lập làng lập phố, tự do đi lại trên khắp lãnh thổ Việt Nam, khai thác bauxite ở vị trí địa chính trị trọng yếu của Việt Nam kể cả vùng Đông Dương, giả dạng lập bè nuôi cá ngoài khơi hải cảng chiến lược bậc nhất của Việt Nam và mượn tay tay sai Việt gian mua đất lập nông trại gần khu có dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân của Việt Nam... 

Bên cạnh việc từng bước xâm lăng lãnh thổ qua nhiều thủ đoạn dụ dỗ mua chuộc bằng tiền bằng quyền lực, quyền lợi vật chất đến sử dụng vũ lực răn đe cưỡng chiếm, là những hoạt động mang tính chất xâm lăng văn hóa như tổ chức lễ hội treo đèn lồng mang màu sắc Trung Hoa, sửa ngày lễ kỷ niệm trùng khớp với các sự kiện lịch sử quan trọng của Trung quốc, đưa cờ sáu sao lên kênh truyền hình quốc gia, đưa cờ sáu sao đi đón rước lãnh đạo cấp cao Trung Quốc và tràn ngập sản phẩm phim ảnh, trò chơi điện tử tuyên truyền mang màu sắc Trung Quốc... 

Thế thì hơn mười năm người thanh niên Lê Chí Quang kêu gọi “Hãy Cảnh Giác Với Bắc Triều”lúc tham vọng của Bắc triều mới manh nha, ngày nay Việt Nam mất dần lãnh thổ lãnh hải vào tay giặc xâm lược Phương Bắc và màu sắc Trung Hoa đã xâm nhập khắp nơi trên nước Việt Nam. Thử hỏi, liệu mươi mười năm nữa Việt Nam có trở thành một tỉnh của Trung Quốc hay là một đặc khu như Tân Cương, Tây tạng nội thuộc Trung Quốc và thân phận dân tộc Việt Nam có như các dân tộc Mông, Mãn, Tạng, Hồi sống trong đất nước man rợ xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Hoa không? 

Kẻ thù đã lộ diện, thù trong giặc ngoài đã lộ diện, xin đừng vô cảm chần chờ trước khi quá muộn và quyết định tương lai Việt Nam là của tất cả người Việt Nam yêu nước, những người Việt còn mang hồn Việt. Hãy dấn thân nhập cuộc, Tổ quốc đang réo gọi ta lên đường viết nên trang sử mới cho dân tộc Việt Nam. 


Friday, July 27, 2012


Đứa nào là tổ sư lợi dụng lòng yêu nước?


Đứa nào thay tên đổi họ, che tông họ Cộng, dấu tích loài Sản, rao hàng Việt minh, lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân để "cướp chính quyền"

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để cướp xong là độc lập thành độc quyền cai trị đất nước? 

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để lập nên điều 4 và sau đó có đứa tuyên bố bỏ đi là tự sát? 

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để gào lên "Thương cha, thương mẹ, thương chồng / Thương mình thương một, thương Ông thương mười / Yêu con yêu nước yêu nòi / Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu!; để oe oe Tiếng đầu lòng con gọi Stalin?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để thiết tha tha thiết "Bên kia biên giới là nhàBên nầy biên giới cũng là Quê hương"?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để sẵn sàng đốt cháy Trường Sơn, xua hàng triệu thanh niên Việt Nam vào cuộc chiến huynh đệ tương tàn, sinh Bắc tử Nam? 

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để nướng hàng nghìn thanh niên Việt Nam trên núi rừng Tây Nam? 

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để gửi thanh niên ra chiến trường Việt Bắc và sau đó làm đẹp lòng quân xâm lược - nay đã trở thành đồng chí 4 tốt 16 vàng - xóa bia đục mộ những người con nước Việt hy sinh vì tổ quốc? 

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để cắt đất, chia rừng, bỏ biển, bỏ đảo cho những con cắc kè đồng chí-xâm lược-đồng chí đã từng huênh hoang "dạy cho VN một bài học"

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để Ải Nam Quan, nửa Thác Bản Giốc và một phần lãnh thổ biên giới Việt Trung bị xóa tên trên bản đồ Tổ quốc? 

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để ký công hàm dâng đảo, để ngày hôm nay Hoàng Sa - Trường Sa được các đồng chí "bên kia biên giới là nhà" chính thức trương bảng Tam Sa? 

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để treo đèn lồng phương bắc, gắn thêm sao trên cờ đỏ 4 cánh, rình rập âm mưu đem tiếng nước "lạ" dạy cho học trò con nít dân ta? 

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để tống giam thiếu nữ biểu tình tại nhà - đả đảo quân xâm lược? 

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để đạp mặt chính "đồng chí" của mình xuống đường phản đối bọn xâm lăng? 

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để bắt người phụ nữ lên tiếng bảo vệ biển đảo vào trại phục hồi nhân phẩm? 

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để bán rẽ tài nguyên tổ quốc? 

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để vẽ vời các đề án phát triển đất nước nhằm rút ruột công trình? 

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để ăn cắp tiền bá tánh ODA? 

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để vay tiền mượn vốn và làm giàu trên núi nợ của quốc gia? 

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để đổ lên đầu nhân dân Vinashin, Vinalines, trái bom bùn đỏ bô xít trên nóc nhà Tây Nguyên? 

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để ra đi từ vô sản trở về là tài phiệt, tư bản đỏ? 

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để bám ghế giữ quyền trong khi tự thú nhận cả đám là một bầy sâu - sâu nhỏ, sâu lớn; cả lũ từ trên xuống dưới càng chỉnh càng đốn? 

 

Đứa nào...

Đứa đó, chính nó là tổ sư lợi dụng lòng yêu nước. 

Đứa đó: 
   không có yêu nước mà chỉ có lợi dụng lòng yêu nước. 
   đó là nghề và độc quyền của tổ sư. 
   "thằng" nào khác yêu nước là "thằng" đó láo! 
   "Con" nào khác yêu nước, "con" đó là đồ phản động!

Tuesday, July 24, 2012


HỒI KÝ CHƯA XUẤT BẢN CỦA NGUYỄN ĐĂNG MẠNH VỀ ÔNG HỒ CHÍ MINH
Tôi được tận mắt thấy Hồ Chí Minh hai lần.
Lần thứ nhất ngay sau Cách mạng tháng Tám. Sau cuộc khởi nghĩa tháng Tám 1945, bố tôi đưa cả gia đình từ Thái Bình về Thị xã Bắc Ninh. Tôi tiếp tục học cấp II ở trường Hàn Thuyên.
Một hôm được tin Hồ Chủ tịch về Bắc Ninh. Tôi và mấy bạn học được nhà trường cử đi đón. Mỗi đứa được phát một lá cờ nhỏ bằng giấy, hễ Hồ Chủ tịch đến thì vẫy cờ và hô khẩu hiệu chào mừng.
Chúng tôi đứng xếp hàng trước cửa phòng thông tin thị xã, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh tới.
Đợi một lúc thì có một chiếc xe ôtô con đỗ ngay mép đường, trước cửa phòng thông tin. Tôi thấy có hai anh cảnh vệ vọt ra trước, cầm lăm lăm tiểu liên, nhẩy lên đứng trên hai cái trụ của bức tường hoa thấp trước phòng thông tin. Hai anh lia mũi súng sang trái, sang phải, vẻ mặt căng thẳng. Hồ Chí Minh bước ra sau. Quần áo kaki. Giầy vải. Cầm batoong. Người gầy, đen. Râu tóc cũng đen. Ông đứng lại ngay sát chúng tôi, nhưng không để ý gì đến bọn trẻ con này cả, tuy chúng tôi ra sức phất cờ và hô “Hồ Chủ tịch muôn năm!”. Đứng lại một lát, liếc nhìn chung quanh một chút, mặt đầy cảnh giác, rồi ông đi rất nhanh vào phòng thông tin. Lưng rất thẳng, gầy nhưng cứng cáp, cử chỉ lanh lẹn – ấn tượng của tôi về Hồ Chí Minh là như thế. Hồi đó, ở Bắc Ninh, Việt Nam Quốc dân Đảng hoạt động khá mạnh. Đã có những cuộc đụng độ vũ trang giữa lính Quốc dân Đảng và Vệ quốc Đoàn ở Thị Cầu. Chắc vì thế nên ông Hồ và các vệ sĩ của ông rất cảnh giác.
Lần thứ hai tôi được thấy Hồ Chủ tịch là vào khoảng 1961, 1962 gì đó, hồi tôi công tác ở trường Đại học Sư phạm Vinh. Ông Hồ vào Vinh. Người ta tổ chức cho ông gặp đồng bào ở một cái sân vận động của thị xã.
Họ dựng một cái kỳ đài bằng tre – có vẻ thô sơ thôi. Ông Hồ đứng trên đó với một số cán bộ tỉnh. Lúc hô khẩu hiệu, ông cùng vung tay hô như mọi người: “Đảng Lao động Việt Nam muôn năm!”, “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà muôn năm!”
Ông Hồ vung tay rất cao. Nhưng đến khẩu hiệu thứ ba: “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!”, ông Hồ cũng vung tay lên, nhưng chợt nhận ra họ hoan hô mình, vội rụt tay xuống. Tôi theo dõi không bỏ sót một cử chỉ nào của ông cụ hôm ấy. Ông Hồ bắt đầu nói chuyện với đồng bào.
Hồ Chí Minh không hề tỏ ra là người hùng biện. Nói chậm, ngắn, không lưu loát. Có chỗ lỡ miệng nói hớ, vội lảng sang ý khác. Tôi nhớ ông đang nói dở một câu tục ngữ: “Thanh cậy thế, Nghệ cậy…” thì vội ngừng lại và lảng sang ý khác. Có lẽ ông không muốn làm mất lòng người Nghệ Tĩnh chăng, vả lại “cậy thần” là thần nào, thần Hồ Chí Minh à? Tôi chắc ông nghĩ thế nên không nói tiếp câu ấy nữa.
Năm 1969, tôi chuyển ra công tác tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Các anh Huỳnh Lý, Nguyễn Trác, Hoàng Dung thay nhau làm tổ trưởng Tổ Văn học Việt Nam Hiện đại. Các anh đều rất quan tâm đến việc nghiên cứu thơ văn Hồ Chí Minh nên thường tổ chức cho chúng tôi gặp những người hiểu biết về Hồ Chí Minh như Hoàng Văn Hoan, Lê Quảng Ba, hoạ sĩ Diệp Minh Châu, Vũ Kỳ. Nhờ gặp các vị này, tôi được biết nhiều chuyện cụ thể về ông Hồ, trước hết là chung quanh sự kiện ông Hồ bị bắt ở Quảng Tây, Trung Quốc và viết Nhật kí trong tù.
Ông Hồ về Pắc Bó ngày 28-01 đầu năm 1941, tháng 8-1942 ông trở lại Trung Quốc để vận động các cơ sở cách mạng bên ấy ủng hộ Việt Minh và mua vũ khí về cho Việt Minh.
Ông Lê Quảng Ba cùng đi với ông Hồ. Đến một địa điểm nào đó thuộc Quảng Tây thì gặp núi lở, một tảng đá văng vào chân Lê Quảng Ba. Ba bị đau, cố đi một cách khó khăn. Để động viên người đồng hành với mình, ông Hồ vừa đi vừa kể Chinh phụ ngâm. Vừa kể vừa giảng. Té ra xa nước ba muơi năm, Hồ Chí Minh vẫn thuộc lòng Chinh phụ ngâm.
Nhưng Lê Quảng Ba càng đi càng đau. Đến Tĩnh Tây thì phải nghỉ lại tại một cơ sở cách mạng. Hôm sau, ông Hồ tiếp tục lên đường. Cùng đi với ông có một thanh niên Trung Quốc tên là Dương Đào – tất nhiên cũng là một cơ sở cách mạng. Đến xã Túc Vinh, huyện Đức Bảo, tỉnh Quảng Tây thì bị bọn Hương cảnh Trung Quốc bắt (ngày 27-8-1942).
Không phải ông Hồ không có giấy tờ hợp lệ. Hồ Chí Minh không thể sơ xuất như thế được. Hồ Chí Minh bị bắt vì khám trong người, cảnh sát Tầu phát hiện có rất nhiều đôla. Nghe nói hồi ở Pắc Bó, có người đã thấy ông phơi đôla cho khỏi ẩm mốc. Bây giờ qua Trung Quốc, ông đem đôla đi để mua vũ khí cho Việt Minh.
Nhưng cảnh sát Tầu cho là Hán gian, là gián điệp của Nhật lúc bấy giờ đang đánh Trung Quốc. Chỉ có gián điệp mới có đôla thôi chứ, người dân Trung Quốc bình thường làm gì có lắm ngoại tệ thế! Điều này tác giả Nhật kí trong tù cũng đã nói rõ trong thơ của mình:
Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng
Lại bị tình nghi là Hán gian
(“Đường đời hiểm trở”)
Hôm nay xiềng sắt thay dây trói,
Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung;
Tuy bị tình nghi là gián điệp,
Mà như khanh tướng vẻ ung dung.
(“Đi Nam Ninh”)
Các vị lãnh đạo Đảng lúc bấy giờ ở Cao Bằng như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt… nghe tin cụ Hồ bị bắt, hoảng quá, cho người sang Tầu dò hỏi xem nó giam ở đâu, nhưng không tìm được. Qua mấy tháng bặt tin tức, các vị bèn quyết định lật bài ngửa: điện cho Mạc Tư Khoa và cho Tưởng Giới Thạch nói rõ đó là Nguyễn Ái Quốc, thủ lĩnh Việt Minh, đề nghị thả ra. Biết không phải là Hán gian, các nhà chức trách Trung Hoa bèn chuyển Hồ Chí Minh sáng chế độ nhà tù khác. Trong Nhật kí trong tù, bài ”Bốn tháng rồi” có thể coi là bản tổng kết giai đoạn đầu của thời gian 14 tháng ở tù vô cũng cực khổ của ông Hồ – “Sống khác loài người vừa bốn tháng, Tiều tuỵ còn hơn mười năm trời”
Chuyển sang chế độ nhà tù mới, ông Hồ được tắm rửa, ăn uống khá hơn, thỉnh thoảng được đi dạo quanh nhà lao, đặc biệt được cung cấp rất nhiều sách báo. Tưởng Giới Thạch còn tặng ông một cuốn sách của mình. Điều này ông Trần Dân Tiên đã có nói nhưng không giải thích lý do vì sao. Điều đáng chú ý là, Nhật kí trong tù có tất cả 133 bài tuyệt cú thì bài “Bốn tháng rồi” là bài thứ 103. Nghĩa là 10 tháng sau, tác giả chỉ làm thêm ba chục bài nữa thôi. Vì sao vậy? Vì Hồ Chí Minh chỉ làm văn chương khi tuyệt đối không có điều kiện làm chính trị, làm cách mạng. Mười tháng sau này, có điều kiện chuẩn bị cho cách mạng, lập tức ông dồn sức vào đấy: đọc sách báo, dịch tác phẩm Tam dân chủ nghĩa của Tôn Trung Sơn, đọc sách của Tưởng Giới Thạch tặng (Cuốn Trung Quốc đích mệnh vận)…
Nguyên bản Nhật kí trong tù đâu chỉ có thơ. Ở cuối tập Nhật kí còn có tới 20 trang ghi kín tin tức thời sự lấy từ các báo chí được cung cấp gọi là Độc báo lan, và những thu hoạch từ các sách đã đọc gọi là Độc thư lan Mới biết, viết bài “Mở đầu” (Khai quyển) Nhật kí trong tù, Hồ Chí Minh đã nói thật lòng mình:
Ngâm thơ ta vốn không ham,
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây;
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do.
Hồ Chí Minh được bọn Tầu Tưởng thả về nước không phải ngẫu nhiên, chắc ông phải khôn khéo thương lượng với chúng và với cánh Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam như thế nào đó, nó mới thả cho về nước. Hôm tiễn cụ Hồ về nước, Hầu Chí Minh (Trong Nhật kí trong tù ông Hồ gọi là Hầu chủ nhiệm (Chủ nhiệm Cục Chính trị Đệ tứ Chiến khu) cùng với Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam có tổ chức một cuộc liên hoan hẳn hoi (tháng 12-1943). Trong liên hoan, họ có thử tài nhau bằng thách đối. Nguyễn Hải Thần đưa ra một vế đối khá hóc hiểm:
“Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, lưỡng vị đồng chí, chí giai minh.”
Ông Hồ xin đối:
“Nhĩ cách mệnh, ngã cách mệnh, đại gia cách mệnh, mệnh tất cách.”
Mọi người tán thưởng. Hầu Chí Minh ca ngợi: “Đối hay lắm!”. Còn Nguyễn Hải Thần thì cung kính nói: “Hồ tiên sinh tài trí mẫn tiệp, bội phục, bội phục!”
Trong cuộc liên hoan, ông Hồ còn góp vui một tiết mục rất đặc biệt: nhảy điệu Nga-la-tư. Một điệu vũ dân gian rất khoẻ của Nga.
Trong Nhật kí trong tù và hồi kí Vừa đi đường vừa kể chuyện, ông Hồ có nói, khi mới ra tù “chân mềm như bún”, đi không được, phải tập leo núi rất khó nhọc, phải bò, phải lết mãi mới đi được. Vậy sao lại có thể nhẩy điệu Nga-la-tư?
Suy ra ta có thể hiểu như thế này: từ khi biết ông Hồ là ông Hồ, không phải Hán gian, nhà chức trách Trung Quốc cho ông được hưởng chế độ quản thúc. Nghĩa là chỉ không được ra khỏi vùng quản thúc thôi, còn thì có thể ra ngoài nhà tù để leo núi, tập đi, tập luyện mắt (Cho nên mới có chuyện, ở Liễu Châu, ông Hồ đi tắm sông, gặp tướng Tàu Trương Phát Khuê). Khoảng giữa tháng 9-1943, sau một thời gian tập luyện, cuối cùng ông Hồ chẳng những đi vững mà còn trèo được núi. Lần đầu tiên lên đỉnh núi, Ông cao hứng làm một bài thơ chữ Hán:
Vân ủng trùng sơn sơn ủng vân
Giang tâm như kính tịnh vô trần
Bồi hồi độc bộ Tây phong lĩnh,
Nam vọng trùng dương ức cố nhân
(Vừa đi đường vừa kể chuyện)
Bài thơ này cụ Hồ đã bí mật gửi về cho các đồng chí của mình ở Cao Bằng (Viết lên mép trắng của một tờ Quảng Tây nhật báo). Võ Nguyên Giáp, trong tập hồi kí Những chặng đường lịch sử cho biết: “Bữa ấy, tôi về cơ quan hội báo tình hình thì thấy anh Đông, anh Vũ Anh và anh Lã đang xem xét quanh một tờ báo. Các anh chuyển tờ báo và hỏi tíu tít:
“Anh xem có đúng là chữ của Bác không?”
Đó là một tờ báo ở Trung Quốc mới gửi về, trên mép trắng có mấy hàng chữ Hán viết tay. Tôi nhận ra ngay đúng là chữ Bác, Bác viết: “Chúc chư huynh ở nhà mạnh khoẻ và cố gắng công tác. Ở bên này bình yên”. Phía dưới lại có một bài thơ.
Như thế bài thơ này đã được làm từ khá lâu (9-1943) trước cuộc liên hoan tiễn chân nói trên 3 tháng (12-1943)
Sau này, Tô Hoài còn cho biết, trong buổi liên hoan tiễn cụ Hồ về nước hôm ấy còn có mặt nhà thơ Quang Dũng nữa. Lúc này Quang Dũng đang đi theo Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần.
Về tập Nhật kí trong tù, có người nói, ông Hồ đánh mất ngay sau khi ra khỏi tù. Thực ra không phải.
Ngày 16-9-1943, ông Hồ được trả lại tự do, cuốn Nhật kí trong tù vẫn được ông giữ cẩn thận.
Ngày 14-9-1955, ông đưa tác phẩm này cho ông Nguyễn Việt, Trưởng ban Tổ chức Triển lãm Cải cách Ruộng đất tại phố Bích Câu: “Tôi có quyển sổ tay cách đây mười mấy năm còn giữ được đến bây giờ, các cô, các chú xem có triển lãm được thì dùng”. Nguyễn Việt đưa vào triển lãm, bầy ở phòng “Ngọn đuốc soi đường của Đảng Cộng sản Đông Dương” .
Nhật kí trong tù hiện được lưu giữ ở Bảo tàng cách mạng Việt Nam.
Vào năm 1970, 1971 gì đó, anh Huỳnh Lý được biết hoạ sĩ Diệp Minh Châu từng sống với Hồ Chủ Tịch sáu tháng ở Việt Bắc thời kháng chiến chống Pháp, nên tổ chức cho chúng tôi gặp hoạ sĩ ở nhà riêng.
Hai vợ chồng cùng là hoạ sĩ và điêu khắc. Nhà cửa hết sức bề bộn, có thể nói là tanh bành. Đất sét, thạch cao vung vãi. Nước đổ lênh láng trên nền nhà. Khắp nơi lăn lóc những đầu người: đầu Nguyên Hồng, đầu Nguyễn Tuân… bằng đất sét.
Cách trò chuyện của Diệp Minh Châu cũng vậy. Chuyện nọ sọ chuyện kia, có lúc lại tạt ngang giới thiệu tranh của vợ.
Ở đây tôi chỉ lọc  ra những gì anh nói về Hồ Chí Minh.
Diệp Minh Châu ở với Hồ Chủ tịch sáu tháng ở chiến khu Việt Bắc trước khi ra nước ngoài học tiếp về hội hoạ, điêu khắc. Hằng ngày, anh cùng ăn với Hồ Chủ tịch.
Có một bữa, đến giờ ăn rồi mà mãi không thấy ông Hồ ra. Diệp Minh Châu ngồi đợi. Cuối cùng ông cũng ra, nhưng lại châm điếu thuốc hút, nghĩa là chưa ăn ngay. Thấy Châu ngồi đợi, ông bảo: “Chú cứ ăn trước đi”.Tất nhiên Châu không dám, vẫn đợi. Một lát, ông Hồ nói thủng thẳng với hoạ sĩ: “Về sau chú làm nghề gì thì làm nhé, đừng làm Chủ tịch nước, khổ lắm!”
Diệp Minh Châu không bình luận gì. Tôi cho rằng, Hồ Chí Minh vừa qua một cuộc họp trung ương, chắc có điều gì không thuyết phục nổi các đồng chí của mình: Người ta đang sùng bái Staline, Mao Trạch Đông, không chịu nghe Hồ Chí Minh, chắc thế. (Staline vốn không coi Hồ Chí Minh là cộng sản chân chính. Ông Phạm Văn Đồng có lần nói với anh Hoàng Tuệ, khi hai người cùng công tác ở Liên Xô: Năm 1950, Staline triệu Hồ Chí Minh sang gặp. Ông ta không gọi Hồ Chí Minh là đồng chí (tavarich).
Ở rừng Việt Bắc vào những đêm trăng đẹp, ông Hồ thường rủ Diệp Minh Châu ra suối câu cá. Vừa câu vừa trò chuyện. Có lần ông nói về Nhật kí trong tù: “Hồi ấy bị giam trong tù buồn quá, phải nghĩ ra cách gì để giải trí. Có ba cách: một là nằm ngửa đếm ngói trên mái nhà, đếm hết lại phân loại ngói lành, ngói vỡ. Hai là săn rệp ở những khe ván sàn xà lim. Ba là làm thơ”. Thì ra đối với ông Hồ, làm thơ cũng chỉ là một trò giải trí như đếm ngói và săn rệp vậy thôi. Thảo nào có ai hỏi ông về Nhật kí trong tù như một tập thơ, ông đều từ chối không trả lời, vì coi đó chẳng phải thơ phú gì và bản thân ông cũng không phải nhà thơ. Chẳng qua ở tù buồn quá, không biết làm gì, thì ghép vần chơi, thế thôi. (Trong Vừa đi đường vừa kể chuyện, ông đã nói như thế).
Năm 1965, Mỹ cho không quân ra đánh phá miền Bắc. Cầu Hàm Rồng, Thanh Hoá, là một trọng điểm oanh tạc của chúng. Anh chị em dân quân Nam Ngạn, Hàm Rồng phối hợp cùng với pháo binh tải đạn và bắn máy bay giặc. Nổi lên có hai nữ dân quân được tuyên dương công trạng xuất sắc: Ngô Thị Tuyển và Nguyễn Thị Hằng. Năm ấy, tôi phụ trách một đoàn sinh viên Đại học Sư phạm Vinh ra thực tập ở trường Lam Sơn, Thanh Hoá, sơ tán ở ngoại ô thị xã. Tôi đưa mấy sinh viên văn ra gặp Nguyễn Thị Hằng ở nhà riêng. Hằng là một cô gái quê mà rất trắng trẻo, cao ráo. Cô cho xem bức hình chụp mặc quân phục trông rất đẹp đẽ, oai phong. Cô khoe vừa được ra Hà Nội gặp Bác Hồ. Lần đầu tiên ra Hà Nội, đi đâu cũng có một anh cảnh vệ hay công an đưa đi. Hành trình qua rất nhiều chặng. Đến mỗi chặng, anh dẫn đường lại bảo, cô chờ ở đây, người khác sẽ đưa đi tiếp. Chặng cuối cùng, anh dẫn đường nói, cô ngồi đây, Bác xuống bây giờ. Một lát ông Hồ tới. Ông không vội hỏi han gì về thành tích chiến đấu của Hằng. Câu hỏi đầu tiên của vị Chủ tịch nước là: “Cháu có buồn đi tiểu, Bác chỉ chỗ cho mà đi”.
Câu chuyện của Nguyễn Thị Hằng về Chủ tịch Hồ Chí Minh hôm đó, tôi nhớ nhất chi tiết này. Chi tiết rất nhỏ nhưng nói rất nhiều về con người Hồ Chí Minh.
Tôi nghĩ đến câu nói của một nhân vật của Dostoyevsky trong Anh em nhà Karamazov: “Tôi càng yêu nhân loại nói chung thì lại càng ít yêu con người nói riêng, tức tách bạch ra từng người riêng rẽ. Những lúc mơ ước, nhiều khi tôi đã có dự định say mê phụng sự nhân loại (…) thế nhưng tôi lại không thể sống chung với bất kì ai trong một căn phòng”. Đó là loại người mà Dostoyevsky gọi là chỉ có “tình yêu mơ mộng” chứ không có tình yêu thực sự. Ông Hồ một mặt yêu nhân loại rộng lớn, mặt khác, quan tâm rất cụ thể thiết thực đến những con người cụ thể quanh mình.
Anh Trần Việt Phương có kể một câu chuyện khác cũng tương tự về ông Hồ. Trước căn nhà sàn của Chủ tịch luôn có một anh bộ đội đứng gác. Thương anh lính trẻ đứng gác lâu chắc đói bụng, ông cụ đem một quả chuối xuống cho anh ta ăn. Anh lính không dám ăn vì như thế là vi phạm luật nhà binh. Ông Hồ nói: Vậy để bác gác cho cháu ăn, không sợ.
Hồ Chí Minh có điều này cũng rất quý: trong cách ứng xử với mọi người, tỏ ra rất lịch sự, nghĩa là rất tôn trọng con người: Hồi kháng chiến chống Pháp, hoạ sĩ Dương Bích Liên được cử đến ở với ông Hồ để vẽ. Sau một thời gian, Tố Hữu đến xem tranh, cho là không đạt (Chắc là Dương Bích Liên thích vẽ Hồ Chí Minh trong sinh hoạt đời thường, không thể hiện được tư thế lãnh tụ chăng?). Tố Hữu quyết định cho Dương Bích Liên thôi việc và mời đi luôn. Khi ông Hồ biết chuyện này thì Dương Bích Liên đã đi rồi. Hồ Chí Minh không bằng lòng với cách đối xử như thế. Ông cho người đuổi theo mời hoạ sĩ trở lại để có lời với anh và đưa tiễn đàng hoàng.
Tôi nghĩ Hồ Chí Minh thực bụng, không hề coi mình là ông thánh, nghĩa là chỉ muốn được là người với những nhu cầu như của mọi người bình thường.Cũng có thể trong tư cách nhà chính trị lại khác. Vì nhu cầu chính trị, có khi Hồ Chí Minh cũng phải “diễn” những điều trái với bản chất của mình. Vì thế tôi nói, thực bụng ông Hồ không thích làm thánh nhân chút nào. Thí dụ, mệt cũng muốn nghỉ. Tố Hữu có lần đi với ông, thấy một khẩu hiệu trên tường: “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!”, ông nói: “Hồ Chí Minh chỉ muốn nằm!” Ông Hồ cũng thích hút thuốc lá. Và chỉ quen hút thuốc lá ngoại, thuốc lá Mỹ. Ông đã bị chi bộ phê bình và bắt hút thuốc nội. Sau thấy ông ho quá, lại cho hút thuốc ngoại như cũ. Anh Hoàng Tuệ kể với tôi chuyện này: hồi kháng chiến chống Pháp, đi công tác ban đêm, tình cờ anh đi cùng với một đoàn người chở thuốc lá ngoại từ vùng tề ra cho cụ Hồ, có bộ đội đi kèm để bảo vệ. Hoạ sĩ Dương Bích Liên, hồi cùng ở với ông Hồ ở Việt Bắc, thấy ông thường hút thuốc lá ngoại, uống rượu Tây và uống sữa tươi (người ta nuôi một con bò để lấy sữa cho ông).
Theo Trần Đăng Ninh (Tô Hoài kể lại), ông Hồ ở Phủ Chủ tịch, thỉnh thoảng lại đóng bộ complet, cravate, chống batoong đi dạo một lúc trong khuôn viên cho đỡ nhớ – hẳn là nhớ sinh hoạt hồi ở Paris.
Hà Huy Giáp cho biết: Một hôm linh mục Phạm Bá Trực gặp ông Hồ, bảo ông là surnature, ông Hồ nói: “Chúng mình là contrenature”. Hà Huy Giáp có một thời gian ở gần Hồ Chủ tịch. Ông kể chuyện hồi năm 1950, ông mới lấy vợ được một năm thì bị điều ra công tác tại Việt Bắc và ở với cụ Hồ. Ông hỏi ông Hồ: “Sao Bác không lấy vợ mà chịu được?”. Ông Hồ nói: “Mình cũng như các chú thôi, từ rốn trở xuống là 18 tuổi. Từ rốn đến cổ là 40 tuổi. Từ cổ đến đầu là 60 tuổi. Kinh nghiệm của dân ta là lao động suốt ngày, mệt thì ngủ luôn. Không có việc gì thì đổ trấu ra xay. Buồn ngủ hãy ngủ. Tỉnh ngủ, dậy liền, đừng có nằm mãi trong chăn. Đừng mặc đồ láng, mềm, mỏng. Nên mặc quần áo vải.” Có cán bộ lên công tác ở Việt Bắc, rỗi việc, ngồi tán gẫu. Bác bảo cởi lạt sàn nhà ra, sau đó lại bảo buộc lại. Để khỏi “nhàn cư vi bất thiện”.
Các anh Huỳnh Lý, Nguyễn Trác và Hoàng Dung còn tổ chức cho chúng tôi gặp ông Vũ Kỳ, thư kí riêng của cụ Hồ.
Cuộc gặp Vũ Kỳ không giúp tôi biết thêm gì về Hồ Chí Minh. Ấn tượng để lại chỉ là hình ảnh của chính Vũ Kỳ. Ông bắt chước tác phong của cụ Hồ từ cách ăn mặc, cách nói năng. Có cái áo Tôn Trung Sơn khoác ngoài không mặc lại vắt lên vai. Đi guốc. Câu đầu tiên ông hỏi chúng tôi: “Các đồng chí có bao nhiêu nữ?”
Anh Nguyễn Khải có lần gặp Vũ Kỳ cũng có nhận xét y như thế: Để râu dài. Áo cánh lụa. Đi guốc. Cầm quạt phe phẩy…
Tôi nghĩ bụng, đã là gia nhân thì bao giờ cũng là gia nhân. Gia nhân của người thường hay gia nhân của vua chúa thì cũng thế.
Về chuyện làm thơ của Hồ Chí Minh, tôi vẫn cho rằng, ông Hồ có ý thức sáng tác hai loại: một là loại thơ tuyên truyền thường dùng lối ca vè, cốt minh hoạ đường lối chính trị. Những bài thơ chúc Tết, mừng xuân cũng thuộc loại này. Thơ này không sáng tác theo quy luật nghệ thuật. Hai là loại thơ nghệ thuật diễn đạt tình cảm, cảm xúc thẩm mĩ. Loại này ông cốt làm để giải trí sau những giờ làm việc căng thẳng, hoặc ở trong nhà tù, khi hoàn toàn không có cách gì để làm việc cho cách mạng.
Nhiều thằng ngu hoặc cố tình không hiểu đã phê phán tôi về sự phân biệt này: Thơ Bác Hồ, thơ nào chả là thơ nghệ thuật và thơ Bác là thơ cách mạng sao lại bảo là để giải trí.
Tôi cho rằng chính cụ Hồ có ý thức phân biệt như vậy. Người ta thường kể chuyện này để ca ngợi đức tính giản dị, khiêm tốn của cụ Hồ: khi làm những bài thơ tuyên truyền, cụ Hồ thường chuyển cho nhiều người xem, kể cả chú liên lạc, để nhờ góp ý sửa chữa cho thật dễ hiểu, dễ nhớ đối với mọi người. Thế là thơ tuyên truyền chứ còn gì nữa. Tuyên truyền thì cốt nhất là mọi người đều dễ hiểu, dễ nhớ, thế thôi. Nghệ thuật gì mà lại góp ý tập thể như thế!
Trước kia, hàng năm, vào dịp 19/5, tôi thường được nhiều nơi mời đi nói chuyện về thơ Hồ Chủ tịch. Thường có chị Trần Thị Tuyết cùng đi để ngâm thơ minh hoạ. Chị Tuyết cho biết, khi Hồ Chủ tịch còn sống, vào dịp cuối năm, chị thường được gọi đến để ngâm thơ chúc Tết của Chủ tịch và phát luôn trên đài. Tới dự có cụ Hồ và mấy ông trong Bộ Chính trị. Khi ngâm thơ chúc Tết, chị để ý thấy ông Hồ có vẻ không quan tâm lắm. Ngâm xong ông thường bảo chị chuyển ngay sang ngâm Kiều. Tôi hỏi, thường chị ngâm đoạn Kiều nào. Chị nói, thường Bác bảo ngâm đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích. Đây là đoạn Kiều nhớ nhà, nhớ người yêu, nhớ quê. Một đoạn thơ buồn.
Chung quanh Hồ Chí Minh, đến nay vẫn còn rất nhiều điều bí ẩn không biết đến bao giờ mới được làm sáng tỏ.
Chẳng hạn, chuyện vợ con thế nào? Trung Quốc đã công bố Hồ Chí Minh kết hôn với Tăng Tuyết Minh. Rồi chuyện cô Hà Thị Xuân người dân tộc Tày và các con (Trung và Trinh gì đó). Ông Trần Độ cho biết, vì cô Xuân cứ đòi chính thức hoá, người ta bèn giao cho Trần Quốc Hoàn (Bộ trưởng Bộ Công an) thủ tiêu cả ba chị em.
Chuyện này nhiều người biết. Có người đã viết ra như Vũ Thư Hiên trong cuốn Đêm giữa ban ngày. Riêng tôi được biết do giáo sư Ngô Thúc Lanh được ông Văn Tân kể cho nghe và truyền đạt lại, hai là do một giáo sư dạy sử ở Đại học Sư phạm Hà Nội, ba là Dương Thu Hương, bốn là ông Trần Độ. Nhưng gần đây có người điều tra ra vụ việc này rất tỉ mỉ, rõ ràng, và công bố cụ thể trên internet: cô Xuân bị thủ tiêu vì hai lý do: một là cô đòi chính thức hoá: điều này phải do Đảng quyết định, mà Đảng thì không thể chấp nhận. Hai là cô bị Trần Quốc Hoàn hãm hiếp nhiều lần. Hoàn tuy đã đe doạ cô, nhưng vẫn sợ bị cô tố cáo. Hắn sai Tạ Quang Chiến đập chết, rồi ban đêm, đặt xác cô ở quãng đường từ Nhật Tân đi Chèm, bố trí một xe ô tô cán lên, tạo ra một vụ tai nạn giao thông giả. Còn ba chị em cô Xuân là ba chị em họ. Một cô tên Nguyệt, một cô tên Vàng. Hai cô này cũng bị thủ tiêu vì đều biết chuyện. Nguyệt mất tích, không rõ bị thủ tiêu ở đâu. Còn cô Vàng thì bị đập chết và quăng xác xuống sông Bằng Giang, Cao Bằng.
Theo Tô Hoài, có một hồi người ta định lấy vợ cho cụ Hồ. Một số cô gái đến cho ông chọn. Ông không chọn ai vì thấy đàn bà mà chẳng ý tứ gì, cứ phơi quần, slip… rất vô ý. Có một cô người Huế, ông Hồ thích. Nhưng cô này hói đầu, ông cũng không lấy. Ông nói, nếu có một cô công chúa nước nào thì lấy – lấy vì mục đích chính trị – chắc ông nói cho vui.
Tô Hoài cũng cho biết, đạo diễn điện ảnh Phạm Văn Khoa thạo cả tiếng Pháp lẫn tiếng Tầu, có lần cùng đi với Hồ Chí Minh sang Trung Quốc (đi xe lửa). Một buổi sáng, Khoa thấy ông Hồ ở toilet ra, cầm slip vừa giặt, nói: “Không có vợ, khổ thế!”
Còn chuyện xuất dương của Hồ Chí Minh? Có phải lần đầu tiên ra nước ngoài là đi Pháp từ cảng Nhà Rồng?
Anh Nguyễn Nguyên (tức Nguyễn Ngọc Lương), một cán bộ tình báo cao cấp của ta, cho tôi biết, Nguyễn Tất Thành lần đầu ra nước ngoài là sang Trung Quốc theo đường dây của Phan Bội Châu. Tất Thành đóng vai một người bán nước mắm, từ Nghệ An ra – giao liên là cô Chu Bích Viêm, tức bà Cả Chính (Nguyễn Nguyên đã gặp bà Cả Chính). Cơ sở cách mạng của Phan Bội Châu ở Hải Phòng lúc bấy giờ là hai cô Nhung và Sâm. Còn cơ sở ở Móng Cái là hai cô con gái ông Ký nhà đoan tên là Yến và Nhạn.
Bà Cả Chính đã từng đưa Nguyễn Tất Thành qua Hải Phòng, Móng Cái, sang Trung Quốc gặp Lý Đông A ở Liễu Châu.
Hồi ấy, ở Việt Nam chưa có phong trào cộng sản.
Sau này, cụ Nguyễn Sinh Sắc mới nhờ cụ Phan Chu Trinh bảo lãnh cho Nguyễn Tất Thành đi Pháp.
Còn chuyện đường lối cách mạng của Hồ Chí Minh?
Theo Hà Huy Giáp, người đầu tiên phê phán Nguyễn Ái Quốc có khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa là Trần Phú. Ông Đào Phan cung cấp cho tôi một tài liệu: khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ở Hồng Kông, Nguyễn Ái Quốc có đưa ra một văn bản gọi là Chính cương vắn tắt, phân tích tình hình giai cấp sát với thực tế Việt Nam, nhất là về giai cấp địa chủ (chế độ công điền khiến địa chủ không phát triển được, vì thế địa chủ ở Việt Nam có thể phân hoá được). Staline bèn phái Trần Phú về nước, vất chính cương của Nguyễn Ái Quốc đi, thay bằng Luận cương Trần Phú đã được đóng dấu ở Mạc Tư Khoa và đặt tên đảng là Đảng Cộng sản Đông Dương. Staline còn chủ trương vô hiệu hoá Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam.
Xem chừng Hồ Chí Minh thích Tam dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên hơn. Ông từng dịch cuốn Tam dân chủ nghĩa hồi bị giam ở nhà tù Quảng Tây, Trung Quốc. Và “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” chính là khẩu hiệu cách mạng của Tôn Trung Sơn.
Lại có chuyện này: Nguyễn Hữu Đang có lần nói với Hoàng Ngọc Hiến: Sau Cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh có nói với Đang: Bảo Đại nó thoái vị sớm quá! Ý ông muốn Bảo Đại cứ tiếp tục làm vua để có thể thành lập ở Việt Nam chính thể quân chủ lập hiến mà ông cho là thích hợp hơn với nước mình. Sau khởi nghĩa tháng Tám, ông ở chiến khu về muộn, lúc đó phái đoàn Trần Huy Liệu, Huy Cận đã lên đường vào Huế nhận ấn kiếm của Bảo Đại. Ông muốn cho người đuổi theo để gọi trở lại, nhưng không kịp. Nhạc sĩ Phạm Tuyên cho biết, ông cũng rất tiếc Phạm Quỳnh đã bị Việt Minh ở Huế thủ tiêu. Chuyện lỡ rồi, ông chỉ còn biết mời mấy người con của Phạm Quỳnh ra gặp để an ủi (ông gặp hai bà con gái của Phạm Quỳnh). Hồi mới sang Pháp, Nguyễn Tất Thành đã từng gặp Phạm Quỳnh (cùng với Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường).
Chắc ông đã hiểu Phạm Quỳnh không phải người bán nước.
Ngoài ra, từ hồi dự Hội nghị Fontainebleau ở Paris (1946), Hồ Chí Minh đã muốn liên hệ với Mỹ và sau này muốn thương lượng hoà bình với chính quyền Sài Gòn.
Một bí ẩn nữa là vì sao Hồ Chí Minh đoán rất chính xác mấy thời điểm lịch sử quan trọng: năm 1945, chấm dứt Đại chiến Thế giới thứ hai và Cách mạng tháng Tám thành công; năm 1954 chiến thắng giặc Pháp (đoán từ năm 1950); năm 1975 chiến thắng giặc Mỹ (đoán năm 1960).
Theo Trần Quốc Vượng, vì ông có tử vi.
Năm 1943, khi Hồ Chí Minh viết câu kết bài “Diễn ca lịch sử nước ta”: “Bốn nhăm sự nghiệp hoàn thành”, thì ở Hội nghị Téhéran, thủ lĩnh ba siêu cường trong phe Đồng Minh là Stalin, Churchill, Roosevelt đoán, chiến tranh chấm dứt năm1946.
Không lẽ gì Hồ Chí Minh ở Việt Bắc, với một cái đài bán dẫn rất thô sơ, lại đoán thời cuộc thế giới chính xác hơn ba tay trực tiếp chỉ đạo cuộc chiến tranh chống phát-xít với những thông tin phong phú, cập nhật và những dữ kiện đầy đủ. Mà ba tay này đâu có dốt nát gì!
Trần Quốc Vượng kết luận: cụ Hồ có tử vi.
Vượng cũng là tay rất sành sỏi tử vi. Anh nói, ở Thư viện Quốc gia có cuốn Tử vi phú đoán của Lê Quý Đôn đã dịch. Vượng đến mượn. Cô thủ thư nói sách không còn. Bố Trần Quốc Vượng có quen cụ Xước là giám đốc thư viện, Vượng đến hỏi, cụ Xước nói: Ông Hoàng Minh Giám đến lấy cho cụ Hồ đọc rồi. Sách đang ở chỗ cụ Hồ.
Anh Từ Sơn có tặng tôi tập Di bút của Hoài Thanh (bản đánh máy lúc chưa xuất bản thành sách). Trong đó có đoạn viết: “Năm 1945, khi quân Tưởng đã kéo vào dày đặc ở miền Bắc và quân Pháp đã bắt đầu đánh phá ở miền Nam, anh Tố Hữu có dịp được gặp Bác. Anh thưa với Bác:
‘Thưa cụ, một bên thì Tây, một bên thì Tàu, bên nào đáng sợ hơn?’
‘Tây cũng không đáng sợ. Tàu cũng không đáng sợ. Đáng sợ nhất là các chú.’ Ông Hồ trả lời như vậy”.
Ngẫm ra đây cũng là một tiên đoán thiên tài của Hồ Chí Minh. Ngày nay Pháp, Mỹ đều rút hết rồi. Đất nước nếu còn khốn khổ thì đúng là do “các chú”.
Một câu hỏi khác đặt ra: cụ Hồ có ý thức tự thần thánh hoá mình không? Đã nói ông Hồ không thích làm ông thánh, nay lại nói ông có ý thức thần thánh hoá ? Tôi cho hai chuyện có chỗ khác nhau. Vì yêu cầu chính trị, có khi phải dùng mưu mẹo, có khi phải diễn kịch nữa – Về mặt này, ông Hồ cũng khá “siêu” đấy. Dân tộc Việt Nam là dân tộc nông dân nên có tâm lý trọng người già và sùng bái thần thánh, chứ không tin ở người trẻ, người thường. Cho nên ông Hồ, năm mươi tuổi đã để râu dài và xưng làGià Hồ. Và cũng không phản ứng gì khi người ta gọi là cha già dân tộc. Theo Trần Quốc Vượng, hồi kháng chiến chống Pháp, Trung ương có giao cho ông Trần Huy Liệu bình tán những câu sấm Trạng Trình ứng vào cụ Hồ rồi cho truyền đi để tạo thành dư luận quần chúng. Đó là chủ trương của Hồ Chí Minh hay chỉ là “sáng kiến” của Đảng ngoài ý kiến của ông Hồ? Nhưng ông Trần Dân Tiên viết Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, có chỗ ví cụ Hồ như con rồng ẩn hiện trong mây. Mà Trần Dân Tiên chính là ông Hồ chứ ai!
Như đã nói, vì lí do chính trị, Hồ Chí Minh nhiều khi phải diễn kịch, sống cứ phải “diễn” như thế, kể cũng khổ. “Không có gì quý hơn độc lập tự do.” “Diễn” tức là bị tước đi của mình quyền sống tự do chứ còn gì nữa! Liệu đã ai hiểu cho ông cụ nỗi khổ này?
Những trò diễn của Hồ Chí Minh nói chung có tác dụng chính trị rất tốt đối với tầng lớp bình dân. Nhưng đối với trí thức, có khi lại phản tác dụng. Năm 1946, Hồ Chí Minh ở Hội nghị Fontainebleau về nước có Trần Hữu Tước và một kỹ sư tên là Quang theo về. Trên tàu, cụ Hồ diễn trò nhẩy son lá son với các thuỷ thủ. Quang thấy thế lấy làm khó chịu, mất tin tưởng. Ông ta bỏ không theo Hồ Chí Minh nữa. Theo Tô Hoài, ông ta sau này về sống ở Nha Trang. Nhưng Hoàng Ngọc Hiến lại đưa ra một thông tin khác: Trần Hữu Tước sau này có gặp Quang rửa xe máy ở Sài Gòn.
Cuối cùng là ngày sinh và ngày mất của Hồ Chí Minh. Ngày sinh cũng do ông tự đặt ra, ai cũng biết rồi. Còn ngày mất? Đúng cái ngày ông đọc Tuyên ngôn Độc lập (2/9).
Theo Hoàng Ngọc Hiến, ông Hồ chủ động chết vào cái ngày lịch sử ấy. Ông ấy đáo để lắm đấy! Một người quyết lấy lại họ Hồ là dòng máu thật của mình (Hồ Sĩ Tạo) thì cũng có thể quyết chết vào đúng ngày sinh của cả nước, ngày mà ông đọc Tuyên ngôn Độc lập.
“Nhưng chủ động chết làm sao được khi người ta luôn chầu chực quanh mình” – Tôi cãi lại Hiến.
“Thì cũng có lúc người ta ra ngoài chứ. Lúc ấy chỉ cần dứt hết những dây dợ của cái ống thở ôxy là chết luôn chứ sao!” – Hiến khẳng định thế.
Một phán đoán không phải là không có lý!
Hà Nội, ngày 6.7.2006
(Toàn văn chương VII trong phần III hồi kí chưa xuất bản của Nguyễn Đăng Mạnh)


Monday, July 23, 2012


Di hại của chế độ cộng sản về vật chất và tinh thần

Chu Chi Nam (Danlambao) - Ngày hôm nay qua quyển Hắc thư của Chủ nghĩa cộng sản (Le Livre noire du Communisme), qua Tượng đài Kỷ niệm những Nạn nhân của chế độ cộng sản, qua Tòa án Quốc tế xử chế độ diệt chủng Pol Pot, người ta chỉ nghĩ đến những thiệt hại vật chất của chế độ cộng sản, mà người ta ít nghĩ đến những thiệt hại tinh thần.

Thực ra những thiệt hại tinh thần vô cùng lớn lao, không biết đến bao giờ chấm dứt, nhất là những nước còn sống dưới chế độ cộng sản như Trung Cộng, Việt Nam, Bắc Hàn và Cu Ba. Chúng ta hãy sơ lược về di hại cả vật chất, lẫn tinh thần của chế độ cộng sản, và cùng suy nghĩ làm thế nào để chấm dứt những di hại này.

I) Sơ lược di hại về vật chất

Di hại vật chất, đó là đi theo lời huấn dạy vừa sai lầm vừa không tưởng của Marx, nghĩ rằng người ta có thể bãi bõ quyền tư hữu, nhưng thực tế quyền tư hữu chỉ có thể chuyển nhượng, đảng cộng sản, sau khi dùng bạo lực cướp chính quyền, đã phát động phong trào "Đánh tư bản mại sản", tước hết quyền tư hữu của dân, rồi trao vào tay một thiểu số đảng đoàn cán bộ.

Những cuộc đánh tư bản mại sản này làm cho đại đa số dân trở nên nghèo khổ, rồi chuyển nhượng tài sản của dân vào tay cán bộ, làm cho họ trở nên những ông tư bản đỏ giàu nứt đố đổ vách, như chúng ta chứng kiến ngày hôm nay.

Không những thế, nó còn làm cho cả trăm triệu người chết oan uổng, vì chính sách: "Trí phú hào, đào tận gốc, trốc tận rễ", giết chết giai tầng sĩ phu trí thức, xương sống của một xã hội, làm cho xã hội trở nên què quặt. Trong khi đó thì ruộng vườn nhà cửa bị sung công, tạo nên cảnh: "Cha chung không ai khóc, nhà chung không người chăm sóc, ruộng chung không ai cày".

Theo một nhóm sử gia Pháp, các ông Stéphane Courtois, Nicolac Werth, Jean louis Panné, André Paczkowski, Karel Bartosek, Jean louis Margolin, trong quyển "Le Livre noir du Communisme" (Hắc Thư về chủ nghĩa cộng sản - nhà xuất bản Laffont – 1997), thì nạn nhân của chế độ cộng sản được chia ra như sau: 

- Liên Xô: 20 triệu người. 
- Trung Cộng, 65 triệu. 
- Việt Nam, 1 triệu. 
- Bắc Hàn, 2 triệu. 
- Căm Bốt, 2 triệu. 
- Đông Âu, 1 triệu. 
- Châu Mỹ La Tinh, 150 000. 
- Phi Châu, 1,7 triệu. 
- A Phú hãn, 1,5 triệu. 
- Phong trào cộng sản quốc tế và những đảng cộng sản không nắm chính quyền, mấy chục ngàn người. 

Thực ra con số này là con số quá ít, chúng ta cứ lấy trường hợp Việt Nam, ngoài những người chết vì bị đấu tố trong cải cách ruộng đất, trong cuộc tấn công Tết Mậu thân 1968, còn biết bao nhiêu thế hệ bị chết oan uổng bởi chiến tranh đánh vào miền Nam, do cộng sản chủ mưu, núp dưới danh hiệu "Giải phóng", nhưng thực tế là muốn nhuộm đỏ miền Nam, theo kế hoạch của cộng sản Nga Tàu.

Con số 20 triệu ở Nga, nhiều nhà sử gia cũng cho là ít, họ ước đoán là khoảng 35 tới 40 triệu.

Đối với Tàu cũng vậy, theo 2 nhà sử gia Jung Chang và Jon Halliday, trong quyển Mao: The Unknown Story (Mao - Câu Chuyện Chưa Được Biết - nhà xuất bản Gaillimard – Paris – 2 006), thì con số phải lên ít nhất là 70 triệu.

Một trong những người ý thức rõ sự tai hại của chế độ cộng sản, ta phải nói đến ông Boris Eltsine, Ủy Viên Bộ Chính trị, Tổng thống nước Nga sau này. Trong bài diễn văn nhậm chức nhiệm kỳ đầu, vào năm 1992, ông có nói:

"Vào đầu thế kỷ 20, nước Nga đang ở chung một con tàu cùng với thế giới, nước Nga không phải là đầu tàu, nhưng cũng ở trong những toa tàu hạng nhất. Thế rồi nước Nga nghĩ rằng mình có thể có một đường lối phát triển riêng biệt, đã tách khỏi đoàn tàu. Không dè nước Nga bị dậm chân tại chỗ. Ngày hôm nay về phát triển nước Nga bị tụt hậu hàng nửa thế kỷ, nếu không muốn nói là hàng thế kỷ."

Ở đây vì lý do chính trị, ông không nói rõ, nhưng ai cũng hiểu ông ám chỉ thủ phạm là Lénine, Đảng cộng sản Liên sô và Đệ Tam quốc tế Cộng sản.

Thực vậy Lénine không hiểu sai lầm của lý thuyết Marx, nghĩ rằng đây là thần dược, không những thực hiện ở nước mình, mà còn tìm cách xuất cảng ra nước ngoài.

Lúc đầu là qua các nước Tây âu, nhưng thất bại như vụ nổi dậy ở Đức qua phong trào Spartakus, một phần do phe cực tả của Đảng Dân chủ Xã hội Đức, tách ra khỏi đảng, nổi lên ở Berlin, vào tháng 1/1919; trước đó ở Hung gia lợi, đảng Xã hội, liên hiệp với đảng Cộng sản, dưới sự lãnh đạo bởi Béla Kun, nổi lên vào tháng 3/1918; nhưng cũng thất bại.

Xuất cảng sang phía tây không thành, Lénine tìm cách xuất cảng sang đông.

Vào năm 1923, tại Đại Hội Đệ Tam quốc tế Cộng sản, với sự có mặt cuối cùng của Lénine, ông đã tuyên bố:

"Chế độ cộng sản đi qua cửa ngõ New Delhi, Bắc Kinh, Moscou, rồi mới tới Paris, Luân Đôn."

Chính vì vậy mà có Hiệp ước thân thiện Lénine - Tôn Dật Tiên vào cùng năm, rồi ông mở ra trường Đông phương sau này, lúc đầu mang tên trường Tôn Dật Tiên.

Con vi trùng độc hại cộng sản bắt đầu tràn sang Á châu. Giới trí thức tả phương đông, đặc biệt là của 2 nước Tàu và Việt Nam, cũng cho rằng lý thuyết Marx là thần dược, không ngần ngại chấp nhận, chạy theo và áp dụng, trong đó chúng ta phải kể Trần Độc Tú, Lý đại Siêu, 2 người được coi là sáng lập viên của Đảng Cộng sản Tàu, tiếp theo là Lưu Thiếu Kỳ, Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình. Ở Việt Nam phải kể Hồ Chí Minh, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Duẩn.

Trong những người trí thức và lãnh đạo chính trị sáng suốt ở Việt Nam, người ta thấy có cụ Phan Bội Châu, và ở bên tàu, có tướng Tưởng Giới Thạch.
Cụ Phan Bội Châu, vào những năm đầu của thập niên 20, cụ đã được những người của Đệ Tam Quốc tế Cộng sản tiếp xúc, chiêu dụ cụ vào tổ chức, nhưng cụ từ chối. Cụ có nói: "Tôi chẳng duy tâm, cũng không duy vật, tôi chỉ duy dân."

Tướng Tưởng Giới Thạch cũng vậy. Sau Hiệp ước thân thiện Tôn Dật Tiên – Lénine, ông đã được họ Tôn, vì lúc đó ông là tay em, gửi sang Liên Sô học. Nhưng ông không ở lâu để học, mà ông về nước ngay.

Người ta hỏi: "Tại sao Tướng quân không ở đấy để học?" Ông trả lời: "Ở đấy không có gì để tôi học." Sau đó ông nói thêm:

"Một con người không có xương sống thì suốt đời chỉ nằm hay bò. Xương sống của một xã hội là giai tầng trung lưu và sĩ phú trí thức. Nay cộng sản chủ trương tiêu diệt 2 giai tầng này, chỉ làm cho xã hội đó trở nên què quặt. Không tiến nổi."

Về sau này, vào những năm 30 và 40, trong trận chiến với Nhật và tiêu diệt cộng sản, ông đã tuyên bố: "Cộng sản như bệnh trong xương tủy. Nhật bản như bệnh ngoài da. Vì vậy phải chủ trương diệt cộng sản trước. Trước sau Nhật bản sẽ thua vì Đại Chiến."

Tuy nhiên, câu nói này quả thật là đúng, quả thật là nhìn xa, trông rộng, như chúng ta ý thức ngày hôm nay. Tuy nhiên vào lúc đó có nhiều người hiểu lầm ông. Đây cũng là một trong những nguyên do chính, khiến ông bị thua bởi Mao trạch Đông. 

II) Sơ lược di hại về tinh thần

Di hại về tinh thần, đó là cũng theo lời huấn dạy của Marx, để tạo dựng một nền văn hóa, văn minh mới, thì phải phá hủy tất cả những gì thuộc về văn hóa, văn minh cũ, đi đến chỗ phá đền đài, phá chùa, phá nhà thờ. Những giá trị nhân bản cổ truyền, dạy dỗ con người trở nên thực sự là người, bị chà đạp, đổ xuống sông, xuống biển một sớm, một chiều, con người không phải là con người, mà trở về đời sống cầm thú, súc vật, mạnh được, yếu thua. Cộng thêm với quan niệm duy vật hiểu theo nghĩa thấp hèn của nó và quan niệm bạo động lịch sử, con người ngay cả bố con, vợ chồng, bạn bè không còn như xưa nữa, mà sẵn sàng giết nhau, hại nhau vì một vài trăm $, như chúng ta thấy hiện nay ở Việt Nam và Trung Cộng.

Ngày xưa, Tản Đà có câu: "Văn minh Đông Á trời thâu sạch. Này lúc cương thường đảo ngược ru." Thực ra, với chế độ cộng sản, không những văn minh đông phương, mà cả văn minh tây phương, nước nào bị cai trị bởi cộng sản, đều lâm vào cảnh "Cương thường đảo ngược", từ vật chất đến tinh thần.

Thực vậy, chế độ cộng sản được dựng lên trên nền tảng lý thuyết không tưởng của Marx và Engels, cho rằng phải phá hủy tất để xây dựng thiên đàng cộng sản.

Từ đó, người cộng sản, khi cướp được chính quyền, có võ lực trong tay, không từ một hành động nào, từ chém giết, dối trá, lừa bịp, khủng bố, dọa nạt, mị dân đến chỗ mị chính bản thân mình, để thực hiện lời dạy của Marx.

Chế độ cộng sản là một chế độ độc tài toàn diện, cực quyền, nắm giữ, kiểm soát tất cả mọi sinh hoạt của đời sống con người, từ triết lý đến chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, công an, quân đội.
Vì vậy, họ đã dùng tất cả những thứ này, cộng thêm với những thủ đoạn ác ôn, côn đồ, hèn hạ, để thay đổi xã hội mà họ cai trị.

Vì vậy, 

1- Chế độ cộng sản là một chế độ cai trị dân bằng cái loa, cái còng và cái súng, nên đã làm cho người dân, hoặc trở nên u mê, hoặc trở nên sợ hãi.

2- Từ đó chế độ cộng sản làm cho người dân trở nên hèn nhát, nhu nhược.

3- Và cũng từ đó chế độ cộng sản làm cho đạo đức băng hoại, kỷ cương suy đồi, nhất là với tư tưởng của Marx chủ trương phá hủy mọi nền văn hóa, văn minh cũ, để xây dựng lên một nền văn hóa, văn minh mới, qua quan niệm "Tam Vô" (Vô tôn giáo, vô gia đình, vô tổ quốc), qua hành động “Trí phú hào, đào tận gốc, trốc tận rễ.”

Thánh Gandhi có nói câu:

“Năm tội ác của một xã hội: 1) Làm chính trị không cần nguyên tắc. 2) Thịnh vượng không cần làm việc. 3) An nhàn không cần đạo lý. 4) Khoa học không cần nhân đạo. 5) Tín ngưỡng không cần hi sinh.”

Năm tội ác này áp dụng cho chế độ cộng sản quả thật không sai.

Nguyên do tại đâu? 

Có thể nói nó bắt nguồn xa xưa từ Marx cho đến Lénine rồi tiếp theo giới lãnh đạo con cháu. 
Marx chủ trương “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu“Một xã hội an nhàn không cần đạo lý.” 

Lénine chủ trương làm chính trị không cần nguyên tắc, miễn sao có lợi cho mình và cho đảng. 

Rồi ngày hôm nay ở Việt Nam, phá thai bừa bãi, nhà thương thay vì cứu người lại à nơi tham ô, hối lộ; chùa, nhà thờ mọc lên như nấm với những “ông sư quốc doanh, linh mục quốc doanh”, đó chính là khoa học không cần nhân đạo và tín ngưỡng mà không cần hi sinh, hơn thế nữa lợi dụng tín ngưỡng để kiếm tiền. 

Xã hội cộng sản quả thật là một xã hội loài người nhưng mất hết nhân tính, xã hội do loài quỉ đỏ cai trị.

Chính vì vậy mà ông Lê Xuân Tá, Phó Trưởng Ban Khoa học và Kỹ thuật của Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam trước đây có viết, vào thời điểm những chế độ cộng sản Liên sô và Đông Âu sụp đổ:

“Sự ngu dốt và sự thấp hèn tự nó không đáng trách. Nhưng sự ngu dốt và thấp hèn mà được trao quyền lực và cấy vào vi trùng ghen tị, thì nó trở thành quỉ nhập tràng.

“Và con quỉ này, nó ý thức rất rõ rằng cái đe dọa quyền và lợi của nó chính là sự hiểu biết, văn hóa và văn minh; nên nó đã đánh những thứ này một cách tàn bạo, không thương tiếc.

“Nhưng chính vì nó là thấp hèn và ngu dốt, nên những thứ này đã trở thành những sạn thận, sỏi mật, trong lục phủ ngũ tạng của chế độ, làm cho chế độ không ai đánh mà tự chết.”

Tôi không đồng ý với câu kết luận này, vì chúng ta không thể ngồi chờ sung rụng. 

Và từ đó, một câu hỏi đến với chúng ta:

Làm thế nào để tiêu trừ những di hại của chế độ cộng sản. Câu hỏi này có thể được đặt ra dưới dạng một câu hỏi khác, đó là:

Tại sao cuộc cách mạng tự do, dân chủ, nhân quyền đã đến với Liên Sô, Đông Âu, rồi tràn sang Tunisie, Ai Cập, Lybie, hiện đang ở Syrie và Miến Điện, thế mà vẫn chưa đến Việt Nam. Làm thế nào để nó xảy ra tại Việt Nam?

Để trả lời câu hỏi này, có rất nhiều nguyên do, vì cách mạng là một biến cố chính trị và lịch sử rất to lớn. Ở đây tôi chỉ xin nêu ra một vài nguyên do chính đứng theo bình diện của người chủ trương cách mạng.

Chế độ cộng sản Việt Nam là một chế độ ác ôn, côn đồ, gian manh quỉ quyệt và đạo đức giả nhất trong những chế độ cộng sản thế giới. Ác ôn côn đồ vì chúng không chừa bất cứ thủ đoạn nào để hăm dọa, trấn áp những người tranh đấu vì tự do dân chủ, vì nhân quyền công lý. Chúng sử dụng những công an không còn tính người, chỉ biết “còn đảng còn mình”; dùng những bọn giá áo túi cơm, mệnh danh “quần chúng tự phát đả thương, quấy nhiễu những thành phần tranh đấu bất bạo động cho sự vẹn toàn lãnh thổ trước sự ngang ngược, bạo tàn của Bắc phương, tranh đấu cho một xã hội không còn cảnh người đàn áp người, người hành hạ người hơn loài lang sói. 

Gian manh quỉ quyệt vì chúng là một chế độ bán nước hại dân, nhưng chúng đã núp dưới chiêu bài quốc gia, dân tộc, “Đuổi Pháp, đánh Mỹ” để lừa bịp dân tộc và cả toàn dư luận quốc tế. Ngay từ đầu khi thành lập đảng cộng sản Hồ chí Minh và bè lũ đã tự nguyện trung thành với Đệ tam Quốc tế Cộng sản, tự đưa dân tộc và đất nước trở thành con chốt hy sinh cho tham vọng bành trướng của Nga Tàu. Lê Duẩn, cựu bí thư của đảng cộng sản Việt Nam đã không ngượng miệng khi tuyên bố “Chúng ta đánh Mỹ là đánh cho Liên sô”. Quỉ quyệt vì chúng đã biết rằng“Đánh rắn là phải đánh dập đầu, vì vậy từ đầu chúng đã tìm mọi cách ám hại, thủ tiêu những người yêu nước không cùng chính kiến, không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản như các cụ Phan Bội Châu, Lý Đông A, Trương Tử Anh. Ngày nay chúng bắt bớ giam cầm hay quản thúc tại gia, cho công an canh giữ, cô lập những lãnh tụ đối lập, từ tôn giáo đến chính trị, như Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Linh mục Nguyễn văn Lý, bác sĩ Nguyễn Đan Quế, blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải và nhiều người khác.

Thêm vào đó chúng biết rằng làm việc gì cũng phải có niềm tin và tổ chức, nên chúng đã tìm cách chia rẽ, xâm nhập vào hàng ngũ chống cộng để xuyên tạc, tung tin thất thiệt, làm lay động niềm tin. Đồng thời chúng tìm cách kiểm soát, cô lập tối đa người này với người kia, vì không có liên lạc thì khó có thể tạo được niềm tin và tổ chức.

Chế độ cộng sản đã được thử nghiệm gần 1 thế kỷ nay, đã hoàn toàn thất bại, mang rất nhiều di hại về cả vật chất lẫn tinh thần cho bất cứ xã hội nào bị cai trị bởi nó. Điều này toàn thế giới đã thấy và dân Việt Nam ý thức rõ hơn ai hết, chỉ có một thiểu số đảng đoàn cán bộ, vì đặt quyền lợi cá nhân lên trên quyền lợi của quốc gia dân tộc nên mới cố bám víu vào quyền hành, cai trị dân bằng cái loa để mị dân, cái còng và cái súng để dọa nạt dân, làm cho dân sợ. Thêm vào đó chúng còn áp dụng chính sách giáo dục nhồi sọ, xuyên tạc sự thật, tôn thờ lãnh tụ, nhằm mục đích ngu dân, ngõ hầu kéo dài ngày sụp đổ của chế độ do chúng dựng lên.

Chính vì lẽ đó mà để làm cuộc cách mạng chống cộng sản ở Liên sô, những nhà trí thức Nga đã lấy câu châm ngôn làm kim chỉ nam: “Sự thật nặng hơn quả địa cầu, Đức Giáo hoàng Jean Paul II, vừa mới lên ngôi, về thăm Ba Lan, đã khuyên dân Ba lan: “Đừng sợ hãi và hãy hy vọng. Ngày hôm nay, bạo quyền ở bất cứ nơi nào cũng không thể cấm đoán dân, nhất là giới trẻ tiếp cận với Internet, nên Ghonim, người chính trong cuộc cách mạng ở Ai Cập, đã nói: “Để làm cách mạng ngày hôm nay, chuyện chính là làm cho dân và nhất là giới trẻ tiếp xúc với Internet.”

Nói lên sự thật, dựng lại niềm tin, đó là công việc làm của mỗi người Việt ở quốc nội, cũng như ở hải ngoại, nên ý thức rõ để thực hiện. Nhưng đây là một công việc đòi hỏi sự kiên trì, đi chính từ bản thân, đến những người chung quanh, bắt đầu từ những người trong gia đình, có thể tin tưởng được, tạo cho họ niềm tin, rồi theo vết dầu loang, một truyền 2, rồi 2 truyền 4, cứ như thế kiên trì mà thực hiện.

Tất nhiên sau đó phải có kế hoạch và tổ chức. Bất cứ một tổ chức cách mạng chống bạo quyền, độc tài nào, thường cũng có 2 phần, hoàn toàn biệt lập nhau: phần nổi và phần chìm.

Phần nổi để thức tỉnh dân, để báo động với quốc tế rằng “Chúng tôi vẫn còn đây, vẫn kiên trì đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền, nhiều khi cũng bị mất mát, hy sinh. Nhưng nhiều khi phải chịu. Phần chìm mới quan trọng, đây là cơ quan sửa soạn hạ tầng, để làm nên những đợi sóng ngầm, đợi đúng thời cơ, thì những đợt sóng này sẽ nổi lên cuốn đi những rác rưởi đã làm ngăn cản giòng lịch sử dân tộc, cuốn đi những tham quan, ô lại, bạo chúa, bạo quyền.

Khi chúng ta đã có tổ chức, có một đường lối tranh đấu, trong hợp với lòng dân, ngoài hợp với trào lưu tiến bộ của nhân loại, đó là tranh đấu nhằm tạo dựng một nước Việt Nam Tự Do Dân Chủ, tôn trọng Nhân Quyền và Tiến Bộ thì chắc chắn chúng ta sẽ có sự hậu thuẫn của dân và sự ủng hộ của nhân dân và các nước yêu chuộng Tự Do và Công Lý trên thế giới.

Tạo dựng niềm tin, lòng cản đảm, tìm hiểu sự thật! Đầu tiên cho chính mình, sau đó cho người thứ nhì, rồi người thứ ba, rồi mỗi người cứ tiếp tục làm như thế!

Đừng nghĩ rằng không đi đến đâu cả, chỉ là công dã tràng. Nên nhớ: Một lâu đài to lớn kia cũng chỉ bắt đầu được xây dựng với những viên đá, viên gạch nhỏ bé lúc ban đầu. Một cuộc hành trình vạn dặm cũng bắt đầu bởi bước khởi hành đầu tiên.