CÁCH MẠNG DÂN CHỦ
TẠI VIỆT NAM, KHOẢNG CÁCH VÀ HY VỌNG
Trần Trung
Đạo
Cuộc cách mạng giành độc lập của Mỹ làm
thay đổi khuôn mặt thế giới suốt mấy trăm năm nay cũng chỉ bắt đầu bằng một
nhóm nhỏ khoảng từ 30 đến 130 người đã can đảm ném các thùng trà của Anh xuống
vịnh Boston năm 1773. Tương tự, biến cố Phá Ngục Bastille sáng ngày 14 tháng
Bảy 1789 được chọn làm ngày quốc khánh Cộng Hòa Pháp không phải để giải phóng
nhiều trăm hay nhiều ngàn tù nhân chính trị nhưng chỉ là hành động mang tính
biểu tượng vì ngày đó nhà tù Bastille chỉ giam giữ 7 tù nhân. Các biến cố ném trà
xuống biển, phá ngục Bastille hay cuộc biểu tình 1 tháng 7
vừa qua tại Việt Nam đều không phải là biến cố lớn về hình thức nhưng chuyên
chở những nội dung lịch sử. Ba sự kiện có một
đặc điểm giống nhau rằng cách mạng là một tiến trình không thể nào đảo ngược.
Chọn lựa hôm nay, vì thế, không còn là chọn lựa của nhân dân Việt Nam mà là của
giới cầm quyền. Bài học Tunisia, Ai Cập, Libya và Miến Điện cho thấy thuận với
lòng dân thì sống mà nghịch với lòng dân sẽ bị bánh xe lịch sử nghiền
nát...
*
Trong bài thơ Giấc mơ nhỏ của tôi có một đoạn nói về sông Bến Hải và sự xa cách giữa
người Việt vẫn còn đang chảy trong lòng:
Chào anh công nhân dệt từng tấm vải
Cho tôi làm con thoi nhỏ trên tay
Để tôi nối hai bờ sông Bến Hải
Nối lòng người vời vợi cách xa nhau.
Bài thơ viết sau 1975, nghĩa là thời gian
đất nước đã “thống nhất” bằng xe tăng và đại pháo, bằng sân bắn và nhà tù. Tôi
không chỉ viết ra mơ ước của mình thôi nhưng đã nhiều lần làm con thoi nhỏ.
Thay vì những buổi gặp gỡ nặng về hình thức, nếu có cơ hội tôi thường mang
những người một thời đã tìm đủ mọi cách để giết nhau, ngồi lại bên nhau.
Một lần cách đây cũng khá lâu, tôi mời hai
người thuộc giới cầm bút đến nhà chơi. Một nhà văn miền Bắc và một nhà văn miền
Nam. Cả hai đều may mắn sống sót sau cuộc chiến. Tên tuổi hai nhà văn không nằm
trong danh sách hơn hai triệu người Việt gởi xác ở Trường Sơn, Hạ Lào, Quảng
Trị, An Lộc, Thường Đức, Tam Quan, Bình Giã v.v... Nếu tính theo số lượng bom
đạn do Mỹ, Liên Xô và Trung Cộng cung cấp và số người chết trên một quốc gia có
địa lý nhỏ hẹp, dân số không đông như hai miền Việt Nam trước 1975, chiến tranh
Việt Nam có thể được xem là một trong những cuộc chiến tranh có mức độ tàn phá
cao nhất trong lịch sử nhân loại.
Chiều hôm đó, chúng tôi ngồi thành ba góc
quanh chiếc bàn tròn nhỏ sau vườn. Một buổi chiều êm ả hiếm hoi của mùa hè nóng
bức. Hai nhà văn tôi mời đến đều nghe tên nhau từ lâu lắm, đọc văn nhau nhưng
chỉ gặp nhau hôm đó lần đầu. Họ rất ngạc nhiên khi nghe tôi giới thiệu tên. Bắt
tay mừng rỡ. Những tiếng “Thì ra, thì ra...” dồn dập. Ánh mắt họ sáng lên niềm cảm động chân thành
vì chẳng bao giờ họ nghĩ có ngày gặp nhau trên xứ Mỹ này. Nhà văn miền Bắc kể
lại hành trình gian nan của anh từ Bắc vào Nam. Những đêm di chuyển đầy nguy
hiểm, những ngày tránh bom B52 trải thảm dọc Trường Sơn. Những trường hợp thoát
chết trong đường tơ kẻ tóc khi quân đội miền Nam hành quân qua khu vực anh đang
trú ẩn. Nơi anh đóng là vùng tranh chấp. Ban ngày Quốc Gia, ban đêm Cộng Sản.
Người dân sống dưới hai chế độ. Ban đêm khi lính rút về đồn, anh lại ra hoạt
động. Dù sao anh chỉ là nhà văn, nhà báo, không trực tiếp tham dự các trận đánh
lớn nên không có những tình tiết gay go hấp dẫn.
Nhà văn miền Nam thì khác. Anh là người
lính chiến dạn dày trận mạc. Anh kể lại vài trận đánh đáng nhớ mà anh từng tham
dự. Có một lần tiểu đoàn của anh được trao trách nhiệm như một “cục đường để dụ
kiến”. Vừa đổ quân xuống ngọn đồi không bao lâu, đào công sự chưa xong, các
cuộc tấn công liên tục của phe nhà văn miền Bắc đánh vào. Mở đầu là những cơn
mưa pháo. Pháo liên tu bất tận. Pháo không ngừng nghỉ. Pháo ngày đêm. Phe nhà
văn miền Nam bị thiệt hại khá nặng. Anh tiểu đoàn trưởng hy sinh ngay trong trận
pháo đầu. Sau vài ngày pháo kích, các đơn vị của phe nhà văn miền Bắc từng đợt
tấn công. Quá đông. Tỉ lệ có thể nói là mười đánh một. Đơn vị của nhà văn miền
Nam phải chọn cái sống trong cái chết, và chống đỡ là con đường duy nhất. Bằng
mọi giá phải giữ ngọn đồi. Mà cho dù có muốn rút lui cũng không rút được. Cuối
cùng, phe nhà văn miền Nam giữ được ngọn đồi. Như đã tính toán, sau đó, các phi
đoàn mở ra hàng loạt các cuộc oanh tạc và pháo binh của phe nhà văn miền Nam
tập trung bắn nát chẳng những chung quanh ngọn đồi mà cả các khu rừng bên ngoài
“cục đường”. Chung quanh ngọn đồi nhỏ ngập đầy xác chết. Sau trận đánh, những
chiếc xe ủi đất của công binh đào một đường mương dài, đủ sâu để khỏi hôi thối
và xúc hàng trăm xác chết của phe nhà văn miền Bắc đổ vào trong đó. Phe nhà văn
miền Nam cũng chẳng hơn gì. “Cục đường” đen đã chảy thành những vũng máu đỏ.
Những công sự, những căn hầm bị pháo sập trở thành những ngôi mộ chôn xác đồng
đội của anh. Những chiếc trực thăng tải thương hạ cánh mang theo xác anh tiểu
đoàn trưởng và rất nhiều bạn bè mới chia nhau điếu thuốc hôm qua nay đã nghìn
thu cách biệt. “Nếu lúc đó không giữ được
ngọn đồi thì sao?” Nhà văn miền
Bắc hỏi. “Thì chết hết chớ sao,
cục đường mà”. Nhà văn miền Nam trả
lời. Anh cười, một nụ cười mang ít nhiều chua chát.
Nhưng rồi anh nói tiếp: “Chắc
là anh nghĩ tôi lúc đó căm thù ghê gớm lắm phải không?”Có, nhưng không ghê gớm
lắm đâu. Các anh bắn tôi và tôi bắn anh. Mà cho dù các anh không bắn tôi thì
tôi cũng bắn các anh. Chiến tranh mà. Xong thì thôi. Lòng căm thù chế độ Cộng Sản trong tôi chỉ lên cao độ
khi sống trong nhà tù Cộng Sản và chịu đựng những cực hình đày đọa, những đối
xử bất nhân, những tháng ngày đói khát”.
Trời sắp tối, hai anh đều có chuyện phải
đi. Họ bắt tay từ giã nhau. Không ai xin lỗi ai. Không ai tha thứ ai. Nhưng qua
buổi tâm sự tôi biết, họ đã hiểu nhau hơn, đã thấy được nhu cầu của một Việt
Nam hôm nay và ngày mai phải thoát ra khỏi chiến tranh, nghèo đói, độc tài và
đi cùng nhân loại hòa bình, ổn định, tự do và giàu mạnh.
Không phải ai cũng có may mắn có dịp trang
trải tấm lòng như nhà văn miền Bắc và nhà văn miền Nam sau vườn nhà tôi lần nọ.
Đó đây vẫn còn nhiều cái nhìn khắt khe đối với những người đang tranh đấu cho
tự do dân chủ với một quá khứ liên hệ với đảng Cộng Sản. Cuộc chiến quá dài, ân
oán quá sâu, không phải dễ dàng gì thay đổi hết được. Người Ý, người Ba Lan khi
giong buồm, nhổ neo rời cảng, họ để lại quá khứ bên bờ biển chỉ mang trên vai
ước vọng về một tương lai tốt đẹp hơn cho họ và con cháu họ. Người Việt Nam thì
khác. Người Việt ra đi mang theo cả cuộc chiến tranh đầy máu và nước mắt. Nhiều
trong số chú bác anh chị đến được bến bờ tự do khi chiếc vết thương trên da
thịt vẫn còn đang mưng mủ sau bao năm tháng tù đày. Xiềng xích không còn, bom
đạn đã thôi rơi nhưng tiếng khua, tiếng thét như vẫn còn nghe trong giấc ngủ
quê người. Thái độ, dù khắt khe, quyết liệt hay cực đoan đi nữa cũng có lý do
riêng của nó. Như nhà văn miền Nam phát biểu, chính sách của đảng CSVN từ 1975
đến nay là nguyên nhân trực tiếp của sự căm thù sâu thẳm trong lòng nhân dân
Việt Nam nói chung và miền Nam nói riêng, đối với chế độ CS và là mầm mống của
sự phân hóa, chia rẽ, hoài nghi trong cộng đồng người Việt. Nhưng dù lý do gì,
các chú bác anh chị vì tương lai con cháu mình, nên suy nghĩ lại và chọn những
hình thức đấu tranh hữu hiệu, thích hợp với thời đại ngày nay.
Con đường cách mạng dân chủ Việt Nam, vì
thế, khác và khó khăn hơn nhiều so với con đường đã diễn ra tại Bắc Phi và tiến
trình chuyển hóa dân chủ đang diễn ra tại Miến Điện.
Điều kiện ra đời và tồn tại của chế độ độc
tài toàn trị Cộng Sản tại Việt Nam không giống các chế độ độc tài cá nhân như
Muammar Gaddafi tại Lybia, Augusto Pinochet tại Chile, Mobutu Sese Seko tại
Zaire hay độc tài phe nhóm quân sự (Junta) Miến Điện, Argentina, Peru, Nigeria,
El Salvador và cũng không giống như các chế độ Cộng Sản chư hầu chùm gởi của
cây đại thụ Liên Xô một thời tồn tại ở Đông Âu.
Phần lớn các chế độ độc tài quân sự, dù cá
nhân hay phe nhóm, hình thành do kết quả của các cuộc đảo chính, lật đổ các
chính phủ tiền nhiệm, nhiều khi cũng rất độc tài. Cơ hội đã đưa một số sĩ quan
từ vị trí của những người lính trở thành những nhà chính trị. Ngoài lòng tham
lam quyền lực và địa vị, họ không sở hữu một vốn liếng chính trị và không có
một sự chuẩn bị đầy đủ để lãnh đạo quốc gia. Tham vọng quyền lực của họ chỉ là
tham vọng cá nhân, phe nhóm. Muammar Gaddafi của Lybia, Hosni Mubarak của Ai Cập
nổi tiếng sắc máu nhưng gốc gác chỉ là những viên sĩ quan võ biền. Các quốc gia
Miến Điện, Libya, Ai Cập, Tunisia cũng không trải qua cuộc chiến tranh ý thức
hệ tàn khốc suốt mấy mươi năm và vai trò của các đế quốc cũng không mang tính
quyết định như trong cuộc chiến Việt Nam.
Việt Nam thì khác. Những người lãnh đạo
CSVN được đào tạo để hoạt động, tổ chức, lãnh đạo chuyên nghiệp, kiên quyết
theo đuổi đến cùng các mục tiêu ngắn và dài hạn của đảng CS. Chính Lê Duẩn
trong tác phẩm quan trọng Dưới Lá Cờ Vẻ Vang Của Đảng, đã xác định tham vọng
nhuộm đỏ Việt Nam và “đưa cả nước tiến nhanh,
tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội". Từ khi thành lập vào năm 1930 cho đến nay, tuy khác
nhau về chiến lược của mỗi thời kỳ và hoạt động dưới nhiều tên gọi (Đảng Cộng
sản Đông Dương, Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, Đảng Lao động Việt
Nam, Đảng Nhân dân Cách mạng ở miền Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam) nhưng Đảng
hoàn toàn nhất quán về tư tưởng và mục tiêu.
Nạn sùng bái cá nhân dưới các chế độ độc
tài không Cộng Sản có nhưng không tác hại trầm trọng đến nhận thức của người
dân. Mobutu Sese Seko của Congo là một ví dụ. Nhà độc tài khát máu của Congo
này sau các chuyến viếng thăm Bắc Hàn, Trung Quốc, Rumani về đã bắt chước xây
dựng một bộ máy tuyên truyền giống hệt như Cộng Sản bằng cách ra lịnh thay đổi
tên đường, tên phố, quốc kỳ, quốc ca, và tháng 10 năm 1971 thay cả tên nước.
Nhưng ngay cả khi Mobutu còn sống dân Congo chẳng những không mấy quan tâm đến
những thay đổi đó mà còn một cách châm biếm gọi tên y là Mobutu Sesesescu chỉ
vì Mobutu là bạn thân của tên độc tài Rumani Nicholas Ceauşescu.
Việt Nam thì khác. Giống như “cha già dân
tộc” Kim Nhật Thành của Bắc Hàn, hình ảnh một “cha già dân tộc” Hồ Chí Minh đã
đóng một lớp băng dày trong nhận thức của nhiều người và ngay cả được thờ chung
một bàn thờ với đức Phật Thích Ca, không một phát hiện, một chứng cớ, một tài
liệu khoa học nào có thể làm lay chuyển niềm tin mù quáng vào Hồ Chí Minh trong
lòng những người Việt cuồng tín. Ý thức nô lệ tồn tại dưới hình thức tà đạo đó
không phải chỉ trong hàng ngũ đảng viên mà cả ngay trong những người đấu tranh
chống lại các sai lầm của lãnh đạo đảng.
Về mặt lý luận, việc so sánh với hệ lý luận
Cộng Sản với những lý thuyết biện minh cho sự tồn tại của các chế độ độc tài
như “Sách Xanh” (Green Book) của
Muammar Gaddafi hayĐường Miến Điện Dẫn Tới Chủ Nghĩa Xã Hội (The Burmese Way to
Socialism) chẳng khác gì đem giáo
trình đại học so với sách tập đọc lớp vỡ lòng. Tầng lớp cán bộ làm công tác
tuyên truyền ở Miến Điện và Lybia chỉ là một phường nịnh hót gió chiều nào theo
chiều đó. Tại Lybia trước tháng Hai 2011, với đại đa số dân chúng Sách Xanh mang
tính cách giải trí nhiều hơn là lý luận. Giáo sư Vandewalle của đại học
Dartmouth và tác giả của Lịch Sử Libya Hiện Đại (A History of Modern
Libya) nhận xét Sách
Xanh là một chuỗi những câu cách
ngôn chứ không phải là một hệ lý luận thông suốt và chẳng thuyết phục được ai.
Sau cách mạng dân chủ, dân chúng đốt hàng ngàn Sách Xanh không phải vì sợ “tư tưởng Muammar Gaddafi” có cơ hội hồi sinh nhưng chỉ
vì đó là biểu tượng của chế độ độc tài.
Việt Nam thì khác. Giới lãnh đạo đảng CSVN
có cả kho lý luận, một bộ máy tuyên truyền tinh vi và những câu trả lời thích
hợp cho từng lứa tuổi, từng ngành nghề, từng giới, từng trình độ học vấn. Nền
giáo dục một chiều và phản khoa học như cây đinh đóng sâu vào ý thức của con
người từ tuổi ấu thơ cho đến lúc trưởng thành. Không ít người Việt, nhất là
những người luôn bắt đầu bằng câu rào đón “đừng nói là tôi bị tẩy
não đấy nhé” đã bị tẩy não mà
không chịu thừa nhận hay không biết mình bị tẩy não. Với họ, sự có mặt của Đảng
Cộng sản trong đời sống chính trị và sinh hoạt xã hội Việt Nam tự nhiên chẳng
khác gì bốn mùa xuân hạ thu đông. Họ còn tin rằng chỉ có đảng CSVN với tư cách
một đảng cầm quyền, mới có khả năng dẫn dắt dân tộc Việt Nam trên con đường đi
đến một tương lai tươi sáng. Họ viện dẫn trong quá khứ đảng có vài chính sách
bị cấp dưới thực thi quá tả hay quá hữu nhưng về căn bản con đường đảng chọn
vẫn là con đường đúng, và tham nhũng là một hiện tượng xấu của mọi xã hội đang
từng bước đi lên vả lại ngay cả Anh, Mỹ, Pháp đều đầy dẫy đâu chỉ riêng tại
Việt Nam.
Chế độ Cộng Sản tại Việt Nam cũng không
giống như chế độ độc tài Cộng Sản tại các quốc gia Đông Âu. Mặc dù đảng Cộng
Sản tại các nước Đông Âu ra đời trước thế chiến thứ hai nhưng nếu không có sự
chiếm đóng của Hồng Quân Liên Xô và sự thỏa thuận của các cường quốc Anh, Mỹ,
Liên Xô, sẽ không có một nhóm quốc gia Cộng Sản được gọi là Cộng Sản Đông Âu.
Bản thân của định nghĩa “Cộng Sản Đông Âu” đối nghịch với khối các quốc gia dân
chủ Tây Âu, vốn đã mang nặng ý nghĩa chính trị trong thời kỳ chiến tranh lạnh
nhiều hơn các ý nghĩa về văn hóa hay địa lý.
Việt Nam thì khác. Như tôi có dịp trình
bày, trong lúc các đảng Cộng Sản Đông Âu thực chất chỉ là những dây chùm gởi
sống nhờ vào sức mạnh của đồng Ruble, xe tăng và hỏa tiễn Liên Xô, khi cây đại
thụ Liên Xô thối ruột thì dây chùm gởi cũng khô héo theo, đảng CSVN bám sâu vào
cây đại thụ Việt Nam, sinh sôi nẩy nở bằng nhựa nguyên và nhựa luyện Việt Nam.
Quá trình hình thành và phát triển của đảng CSVN là một quá trình đầy ngộ nhận
lịch sử và họ tồn tại đến ngày nay, một phần lớn cũng nhờ vào những ngộ nhận
đó. Cuộc chiến thắng của đảng CSVN ngày 30-4-1975 là kết quả của cuộc lừa gạt
lớn nhất trong lịch sử Việt Nam.
Không ít người Việt cho rằng sở dĩ Việt Nam
không được quốc tế quan tâm đúng mức như Miến Điện, Ai Cập chỉ vì chưa có những
Giải Nobel Hòa Bình như Aung San Suu Kyi của Miến Điện hay Mohamed ElBaradei
của Ai Cập, nơi những tiếng nói của họ đã được chính phủ khắp thế giới lắng
nghe.
Thật ra, tại Ai Cập quê hương của Mohamed
ElBaradei và Miến Điện quê hương của Aung San Suu Kyi, dù cai trị bằng bạo lực
sắc máu, quyền con người trong các quốc gia độc tài quân sự không hoàn toàn bị
xóa bỏ. Chế độ thông tin, kiểm duyệt còn nhiều kẻ hở. Qua các phương tiện
truyền thông quốc tế, những gì xảy trong các quốc gia này đều được thế giới
biết được khá rõ. Các tổ chức đối lập, chống chính phủ, công đoàn tuy bị trấn
áp nhưng vẫn có cơ hội hoạt động. Đảng đối lập Liên Đoàn Toàn Quốc
Vì Dân chủ (National League for Democracy, viết tắt là
NLD) của bà Aung San Suukyi có cơ sở hạ tầng vững chắc và
đã thắng 396 trong tổng số 485 ghế Quốc Hội trong cuộc bầu cử dân chủ công khai
được quốc tế công nhận năm 1990 trước khi bị đám quân phiệt đàn áp. Các cơ sở
từ trung ương đến địa phương, kể cả đại diện của chính phủ NLD cạnh các chính
phủ quốc tế bên ngoài Miến Điện cũng đã duy trì các hoạt động trong suốt thời
gian bà Aung San Suu Kyi bị giam giữ tại nhà.
Thế giới đang ca ngợi bà, ngoài đức tính
can đảm và kiên trì với lý tưởng tự do còn vì thái độ ôn hòa, chấp nhận đối
thoại để giải quyết các vấn đề của đất nước. Tuy nhiên không phải bao giờ thái
độ ôn hòa, hợp tác cũng đem lại kết quả tốt. Như có lần tôi đã viết, hòa giải
hòa hợp là con đường hai chiều, không ai có thể đứng bên này sông bắt người
khác phải bơi qua sông để hòa giải với mình. Trong điều kiện Miến Điện hay Việt
Nam, hòa giải tùy thuộc trước hết vào chính sách và thái độ của giới cầm
quyền.
Không giống như giới lãnh đạo Miến Điện
cuối cùng đã thức tỉnh, tại Việt Nam, lời kêu thương thống thiết của tầng lớp
nhân dân bị áp bức suốt 37 năm qua chỉ là những viên sỏi nhỏ rơi vào biển cả,
không tạo nên gợn sóng, tiếng vang nào. Với tất cả sự kính trọng dành cho bà
Aung San Suu Kyi, nếu bà phải đối phó với cơ chế lãnh đạo độc tài ngoan cố như
Việt Nam, có thể bà phải chọn giải pháp của đức Giám Mục Giáo Hội Anglian
Desmond Tutu, Giải Nobel Hòa Bình 1984.
Chủ trương của đức Giám Mục Giáo Hội
Anglian Desmond Tutu là một bài học giá trị để đối phó chính sách ngoan cố của
chế độ độc tài. Giám Mục Desmond Tutu trong cuộc đấu tranh chống Phân Biệt
Chủng Tộc Nam Phi vào thời điểm khốc liệt 1976, thay vì thỏa hiệp, đàm phán, đã
kêu gọi thế giới gia tăng cấm vận, tẩy chay hàng hóa Nam Phi, cô lập chính phủ
Nam Phi, trừng phạt kinh tế Nam Phi càng mạnh càng tốt mặc dù điều đó có ảnh
hưởng trực tiếp đến lực lượng lao động phần lớn là da đen. Giám Mục Tutu chống
cả sáng kiến thương lượng với chính quyền da trắng Nam Phi của Tổng Thống
Reagan. Khi được hỏi cấm vận và trừng phạt kinh tế chỉ làm cho dân da đen bị
đói trước, ông thẳng thắn tuyên bố nhân dân Nam Phi chịu đói nhưng đói “có mục
đích”. Rất nhiều quốc gia như Anh, Mỹ và công ty quốc tế hưởng ứng lời kêu gọi
của đức Giám Mục. Nền kinh tế Nam Phi bị khủng hoảng. Đồng Rand của Nam Phi mất
giá đến 35 phần trăm trong một thời gian ngắn. Để cứu vãn nền kinh tế, thực
chất là cứu vãn gia tài, lãnh đạo chính quyền da trắng đành phải nhượng bộ.
Giám Mục Desmond Tutu được trao giải Nobel Hòa Bình 1984, giải Nhân Đạo Albert
Schweitzer 1986, giải Sydney Peace 1999, giải Gandhi Hòa Bình 2005, Huân Chương
Tự Do Tổng Thống Hoa Kỳ 2009 và được thế giới ca ngợi nhờ vào vai trò của ông
như nhân vật hàng đầu trong nỗ lực giải quyết vấn đề phân biệt chủng tộc tại
Nam Phi.
Việt Nam không thiếu những nhà đấu tranh có
nhiều năm thử thách trong lao tù, có đạo đức, có lý luận, có tâm huyết nhưng
chỉ vì chưa có điều kiện khách quan và chủ quan để những ánh đuốc tự do được
tỏa sáng xa hơn. Các nhóm hoạt động vì dân chủ, các nhóm đối kháng với đảng
CSVN gần như không có một phương tiện nào. Ngoại trừ một số ít người hoạt động
dân chủ tên tuổi đang bị tù và được các cơ quan nhân quyền quốc tế được ghi
nhận, hàng trăm, hàng ngàn người đang bị đe dọa thường trực, trấn áp, tù đày
trong các làng xã, quận huyện xa xôi hay đang trốn tránh tại nhiều nơi trong
vùng Đông Nam Á, không ai biết được, không một tổ chức nào tổng kết hết được.
Sự chịu đựng trong âm thầm câm nín của các tầng lớp nhân dân Việt Nam so với
nhân dân Miến Điện và các nước Bắc Phi đau đớn hơn nhiều. Những bản án dài hạn
chụp lên đầu những người yêu nước khi họ chỉ vừa cất lên tiếng nói trước những
bất công xã hội. Người ít và thế cô. Giãi giang sơn Việt Nam hình chữ S thực
chất là một nhà tù được bao bọc bằng một bức tường bưng bít thông tin dày và
một chế độ trấn áp không thua tiêu chuẩn một nhà tù khắt khe quốc tế nào.
So sánh và phân tích một số điểm khác nhau
tiêu biểu giữa Việt Nam và các quốc gia khác để thấy cuộc đấu tranh vì tự do
dân chủ Việt Nam khó khăn và phức tạp hơn cuộc chuyển hóa dân chủ Miến và cách
mạng hoa lài Bắc Phi nhiều lần.
Đấu tranh chống lại một hệ thống cai trị tinh vi
như CSVN như thế mà chúng ta chỉ chen lấn nhau trong những chỗ đứng chật hẹp,
co cụm trong những mẫu số chung có tính địa phương, tôn giáo, bám víu vào những
phạm trù, lý luận lỗi thời, sẽ không giải phóng được dân tộc ra khỏi chế độ
Cộng Sản.
Đảng CSVN còn thống trị nhân dân Việt Nam được,
vì ngoài nhà tù sân bắn, còn nhờ vào việc gieo rắc các mầm mống phân hóa, khai
thác các bất đồng không cơ bản, đào sâu thêm hố hoài nghi chia rẽ trong cộng
đồng dân tộc. Nếu các thành phần dân tộc vẫn tiếp tục chống đối nhau, tiếp tục
khai thác những bất đồng nhỏ nhặt, tiếp tục kéo dài những cuộc tranh luận mà cả
hai bên đều biết sẽ không đi đến đâu, rồi tất cả chỉ rơi vào chiếc bẫy của đảng
CS.
Một khái niệm quen thuộc gần như nghe mỗi ngày là chính nghĩa quốc gia. Trước năm 1975, khi nghe nói đến chính nghĩa quốc gia chúng ta tự động
nghĩ đến các thành phần dân tộc đang chiến đấu chống Cộng Sản và về mặt địa lý,
phải sống bên bờ phía nam của sông Bến Hải. Ngày nay, nhận thức đó không còn
đúng và biên giới đó không còn tồn tại nữa. Khái niệm quốc gia dân tộc hôm nay
mang ý nghĩa rộng lớn hơn nhiều. Đó là chỗ dựa không phải chỉ dành cho những
người Việt hải ngoại mà cả đồng bào trong nước đang chịu đựng trong xích xiềng
Cộng Sản, không phải chỉ những người thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa mà tất cả
những ai quan tâm và dấn thân vì một Việt Nam tự do dân chủ và thịnh
vượng.
Nội lực dân tộc phải bắt đầu từ mỗi con
người Việt Nam trước khi chảy chung vào dòng thác dân tộc. Cuộc biểu tình ngày
1 tháng 7 vừa qua với sự hiện diện của rất nhiều thành phần, từ thanh niên sinh
viên học sinh, nông dân, công nhân đến các bậc bô lão và văn nghệ sĩ. Đó là
những dấu hiệu tích cực. Họ có quá khứ khác nhau nhưng cùng được thôi thúc bằng
tinh thần yêu nước, truyền thống tự chủ giống nhau. Tổng cộng số người tham dự
các cuộc biểu tình từ Hà Nội đến Sài Gòn vào khoảng vài trăm nhưng có một giá
trị tinh thần rất lớn. Bước chân của họ là khởi điểm cho một cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ toàn diện và triệt để đang diễn ra tại Việt Nam. Quyền tự chủ dân tộc trong thời đại ngày nay gắn liền với dân chủ. Nói
cụ thể hơn, Việt Nam không bao giờ giành lại được Hoàng Sa, Trường Sa từ tay bá
quyền Trung Cộng bằng cơ chế chính trị độc tài mất lòng dân và không được quốc
tế ủng hộ như chế độ CSVN hiện nay.
Cuộc cách mạng giành độc lập của Mỹ làm
thay đổi khuôn mặt thế giới suốt mấy trăm năm nay cũng chỉ bắt đầu bằng một nhóm
nhỏ khoảng từ 30 đến 130 người đã can đảm ném các thùng trà của Anh xuống vịnh
Boston năm 1773. Tương tự, biến cố Phá Ngục Bastille sáng ngày 14 tháng Bảy
1789 được chọn làm ngày quốc khánh Cộng Hòa Pháp không phải để giải phóng nhiều
trăm hay nhiều ngàn tù nhân chính trị nhưng chỉ là hành động mang tính biểu
tượng vì ngày đó nhà tù Bastille chỉ giam giữ 7 tù nhân. Các biến cố ném trà xuống biển, phá ngục Bastille hay cuộc biểu tình 1
tháng 7 vừa qua tại Việt Nam đều không phải là biến cố lớn về hình thức nhưng
chuyên chở những nội dung lịch sử. Ba sự kiện có một đặc điểm giống nhau rằng
cách mạng là một tiến trình không thể nào đảo ngược. Chọn lựa hôm nay, vì thế,
không còn là chọn lựa của nhân dân Việt Nam mà là của giới cầm quyền. Bài học Tunisia, Ai Cập, Libya và Miến Điện cho thấy
thuận với lòng dân thì sống mà nghịch với lòng dân sẽ bị bánh xe lịch sử nghiền
nát.
Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam là
cuộc đấu tranh có chính nghĩa và chính nghĩa luôn thắng trận cuối cùng. Từng
giọt nước đã và đang được rót vào ly. Không ai biết giọt nước làm tràn ly sẽ
rót xuống khi nào nhưng chắc chắn mọi người đều biết, sẽ rót xuống từ lòng dân
tộc Việt Nam và thời gian không còn xa xôi nữa. Cả hơn 700 tờ báo đảng, dĩ
nhiên không cùng hô đả đảo Trung Quốc xâm lăng trên trang nhất nhưng cũng không
dám chỉ trích, không xám xúc phạm bởi vì đảng biết những bước chân trên đường
phố Sài Gòn, Hà Nội hôm kia là những bước chân từ khát vọng thiêng liêng và
trong sáng.
Ước mơ của hai người lính, hai nhà văn miền
Bắc và miền Nam mong được thấy các thế hệ Việt Nam tương lai được sống trong
hòa bình, ổn định sẽ thành sự thật. Tổ tiên chúng ta đã làm được, ông bà chúng
ta đã làm được và rồi chúng ta, con cháu của các ngài, cũng sẽ làm được. Con
tàu rộng thênh thang và mỗi ngày được nối thêm nhiều toa mới, đủ chỗ cho mọi
người có tâm huyết hướng về cùng điểm hẹn tự do, dân chủ, nhân bản và thịnh
vượng cho Việt Nam mãi mãi về sau.
Tôi có người bạn rất thân. Tôi thân anh ấy phần lớn vì anh ấy rất ghét cộng sản. Nhưng tôi thấy cái kiểu chống cộng của anh ta chỉ để thỏa mãn sự ghét của mình, hoàn toàn không đóng góp gì trong công cuộc giải trừ chế độ CS dù rất khiêm nhường, mà còn có tác dụng ngược nữa. Tôi xin nêu vài thí dụ: Theo anh, những người đấu tranh cho dân chủ tại VN hiện nay phần lớn là do...VC gài. Anh chê bai cách dùng từ của Việt Nam hiện nay (Anh nói tại sao không gọi là "Xa lộ" mà gọi là "cao tốc", tại sao lại là "tên lửa", mà không là "hỏa tiên"...Tóm lại anh luôn luôn nhìn Việt Nam bằng đôi mắt có hình viên đạn...
ReplyDelete